Chuyên đề Biển Đông Việt Nam: Quá trình nhận thức và khai chiếm
- Sách địa lý Allgemeine Geographische Ephemeriden của F.J. Bertuch,
xuất bản tại Weimar năm 1815. Trang 116 liệt kê những địa danh thuộc về
vương quốc Cochinchina, gồm: Tschiampa (Champa), Donnaï, Saigong (Sài
Gòn), Paracels và Condor (Côn Đảo).
- Hồi ký Le mémoire sur la Cochinchine của Jean-Baptiste Chaigneau viết
vào khoảng năm 1820. Trong hồi ký này có đoạn viết: “Vương quốc
Cochinchine mà vị vua hiện nay (vua Gia Long) tuyên xưng hoàng đế gồm xứ
Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc Cao Miên,
một vài đảo có dân cư ở không xa bờ biển và quần đảo Paracel hợp thành từ
những đảo nhỏ, bãi ngầm và mỏm đá không có người ở. Chỉ đến năm 1816
đương kim hoàng đế mới chiếm hữu được quần đảo này”.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Biển Đông Việt Nam: Quá trình nhận thức và khai chiếm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Biển Đông Việt Nam: Quá trình nhận thức và khai chiếm
1 CHUYÊN ĐỀ BIỂN ĐÔNG VIỆT NAM: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ KHAI CHIẾM ------------------------- GS.TS. NGND. Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội) Việt Nam nằm ở phía Đông của bán đảo Đông Dương 東 洋 半 島, có địa thế tựa lưng vào núi, ngoảnh mặt ra biển, với bờ biển dài 3260 km. Biển Việt Nam được gọi là Biển Đông với ý nghĩa hết sức giản đơn là biển bao lấy toàn bộ mặt Đông của đất nước. Biển Đông là nhịp cầu nối liền Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, là giao điểm của các nền văn hóa, văn minh lớn của Thế giới. Biển Đông Việt Nam nằm trên đường hàng hải quốc tế từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc nên giữ một vị thế địa - chính trị, địa - kinh tế và địa - văn hóa hết sức đặc biệt. Biển Đông là cánh cửa mở ra với thế giới của Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử1. Lịch sử Việt Nam được mở đầu bằng sự ra đời của 3 vương quốc cổ đại đầu tiên là là nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, nước Lâm Ấp - Chămpa ở miền Trung và nước Phù Nam ở miền Nam. Các vương quốc này cùng có chung một dải Biển Đông, đều tự nhận nguồn gốc biển của mình và trong thực tế biển đã giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, thậm chí quyết định sự hưng thịnh hay suy tàn của mỗi vương quốc. Lịch sử Việt Nam do được tích hợp ít nhất từ 3 dòng như thế, tuy mỗi khu vực vẫn bảo tồn những nét truyền thống riêng, nhưng cũng sớm định hình một xu thế thống nhất của một dòng chảy chủ đạo là từ Văn Lang - Âu Lạc trải qua 1000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc đến Đại Việt - Đại Nam và Việt Nam. Lịch sử Việt Nam, vì thế, lại có một quy luật vận động riêng, trong đó năng lực khai chiếm các vùng biển đảo trở thành thước đo sức mạnh và vị thế của một vương triều hay một thời đại. 1 Biển Đông một trong những biển lớn nhất thế giới, nối liền hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, thuộc loại biển nửa kín nửa hở, một biển rìa lục địa nhưng lại mang những nét đặc trưng của đại dương. Biển Đông được bao bọc bởi 10 quốc gia và vùng lãnh thổ là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Singapore và Đài Loan. Biển Đông là nhịp cầu nối liền và đầu mối của nhiều tuyến đường thông thương lớn nhất thế giới, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Biển Đông là khu vực đặc thù chứa đựng tất cả các nội dung liên quan của Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển năm 1982, nơi chứa đựng nhiều tranh chấp biển, trong đó tranh chấp khu vực giữa Biển Đông và nam Biển Đông đã trở nên lâu dài, phức tạp và có nhiều quốc gia tranh chấp cũng như thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia nhất trên thế giới hiện nay. 2 Kết quả khai quật và nghiên cứu Khảo cổ học ở Việt Nam một thế kỷ qua đã xác định được khá rõ ràng những lớp cư dân cổ từ trong các vùng nội địa liên tục tiến ra khai phá, sinh cơ lập nghiệp và làm chủ các vùng đảo, quần đảo ngoài Biển Đông. Bắt đầu từ thời Hậu kỳ thời đại Đá cũ và nhất là từ Sơ kỳ thời đại Đá mới (khoảng từ 25.000 năm đến 18.000 năm cách ngày nay) đã có những bộ phận cư dân từ lục địa tiến ra chiếm lĩnh các đảo, quần đảo ở khu vực Đông Bắc. Họ định cư tại đây khai phá đất đai, dựng nhà, lập làng và để lại các di tích, di vật thuộc thời đại Đá cũ ở Cồn Cỏ (Quảng Bình), thuộc thời đại Đá mới (các văn hóa Hòa Bình, Soi Nhụ, Đa Bút, Hạ Long, Bàu Tró) trên các dải đảo, quần đảo chạy dọc từ Móng Cái cho đến Bắc Trung Bộ và văn hóa Sơ kỳ Kim khí (văn hóa Hoa Lộc) thuộc khu vực bờ biển Thanh Hóa, Nghệ An. Sự hiện diện của các nền văn hóa khảo cổ học ở đây với số lượng, quy mô và các di tích như vậy chứng tỏ số lượng người di cư ra các vùng biển đảo không nhỏ và ngay từ đó họ đã thuộc nhiều nhóm người, nhiều lớp người khác nhau. Chúng tôi không có điều kiện trình bày toàn bộ, mà trên cơ sở nghiên cứu quá trình nhận thức và thông qua đó bước đầu giới thiệu quá trình nhận thức và khai chiếm khu vực Biển Đông, chủ yếu theo dòng chủ đạo của lịch sử Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi dựa vào nguồn tư liệu thư tịch cổ, bản đồ cổ Việt Nam là chính, có mở rộng tham khảo các nguồn tư liệu khác ở trong nước và so sánh với thư tịch cổ và bản đồ cổ của Trung Quốc và phương Tây có liên quan. 1. Biển Đông trong quan niệm truyền thống Huyền thoại khởi nguyên luận của người Việt (Lạc Việt) là truyền thuyết về họ Hồng Bàng nói về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là sự “kết duyên”, là sự “hòa hợp” của hai gống Tiên - Rồng: Tiên là Âu Cơ (鷗姬) thuộc Lục quốc ở trên cạn và Rồng là Lạc Long Quân (貉 龍 君), thuộc Thủy quốc ở miền duyên hải, hải đảo. Truyền thuyết còn kể chuyện Lạc Long Quân hóa phép diệt trừ Ngư tinh ngoài Biển Đông (Đông Hải東 海), khai thông đường biển2. Biển Đông (東 海) theo quan niệm của người Việt lúc đó chỉ là khu vực rộng hơn một chút so với vịnh Bắc Bộ hiện nay. Phía Tây Bắc của vịnh Bắc Bộ, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng có các vịnh Hạ Long, Bái 2 Vũ Quỳnh, Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái (truyện cổ dân gian Việt Nam sưu tập từ thế kỷ XV), Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr 21-29. Trong truyện Ngư tinh, sách nhiều lần nhắc đến Đông Hải (Biển Đông) và cả địa danh Bạch Long Vĩ trong Biển Đông. 3 Tử Long được dân gian giải thích là Rồng Mẹ (Hạ Long) cùng với đàn Rồng Con (Bái Tử Long) kết lại làm bức tường thành ngăn chặn các cuộc tấn công vào vương quốc từ phía biển. Khu vực này suốt trong lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam, lúc nào cũng là cửa ngõ quan trọng nhất, là đầu mối của các luồng giao lưu, tiếp xúc giữa đất liền và hải đảo, giữa phương Nam và phương Bắc. Trên vùng biển đảo Đông Bắc này đã sớm hình thành và phát triển một nền văn hóa nổi tiếng của cư dân khai thác biển - Văn hóa Hạ Long thuộc Hậu kỳ thời đại Đồ Đá mới (giai đoạn muộn) cách ngày nay khoảng 4000 đến 3000 năm. Văn hóa Hạ Long là một dòng văn hóa bản địa góp phần tạo thành nền văn minh Việt cổ và tô đậm thêm yếu tố biển của nền văn minh đầu tiên này của người Việt3. Năm 179 trước Công nguyên, thất bại trước cuộc tấn công xâm lược của Triệu Đà, An Dương Vương cùng con gái Mỵ Châu bỏ thành Cổ Loa chạy về phía Nam đến bờ biển Diễn Châu (Nghệ An)4, không còn đường nào khác, ông đành phải nghe theo thần Kim Quy chém chết Mỵ Châu rồi cầm sừng tê văn dài 7 tấc đi vào trong biển. Cơ đồ của nhà nước Âu Lạc đắm biển sâu. Tương truyền dòng máu oan khuất của Mỵ Châu đã hóa làm hạt ngọc minh châu ngoài Đông Hải 東 海 (Biển Đông)5. Khu vực nguyên gốc của nền văn hóa Hạ Long nổi tiếng đồng thời là là địa bàn căn bản của nước Văn Lang thời Hùng Vương và Âu Lạc thời An Dương Vương, cũng chính là vùng biển đảo nằm ở vị trí tuyến đầu của Việt Nam trong các cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hóa từ phương Bắc, làm nên những kỳ tích anh hùng ở cửa biển Bạch Đằng vào các năm 938, 981 và 1288. Vùng đất Đông Bắc thời Trần cũng được gọi là lộ Đông Hải6, sau đổi thành Hải Đông với ý nghĩa đây là vùng lãnh thổ quan trọng nhất ở bên bờ Biển Đông. Tại đây có cả một hệ thống cảng cửa khẩu lớn nhất và quan trọng nhất, có cửa biển Bạch Đằng: “Quan hà bách nhị do thiên thiết; Hào kiệt công danh thử 3 Các tác giả sách Khảo cổ học Việt Nam cho rằng: “Khai thác biển vẫn là nghề truyền thống của cư dân văn hóa Hạ Long. Nhưng ở giai đoạn muộn, với sự tích lũy kinh nghiệm, sự phát triển của kỹ nghệ chế tác công cụ đá và gỗ, chắc chắn người Hạ Long có những phương tiện tốt hơn để đánh bắt hải sản, tiến hành các công việc trao đổi, buôn bán Vào giai đoạn muộn, phạm vi hoạt động của người Hạ Long vươn xa và mở rộng hơn rất nhiều. Những dấu vết văn hóa Hạ Long không chỉ thấy trên toàn bộ khu vực miền Bắc Việt Nam hiện nay mà còn thấy cả ở miền Trung, miền Nam, và xa hơn thế nữa, ở cả nam Trung Quốc, Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Ở đây biển đã đóng vai trò là tác nhân điều tiết không chỉ riêng sự phát triển của văn hóa Hạ Long, mà là toàn bộ nền văn minh Việt cổ, phần nào thông qua văn hóa Hạ Long”. (Hà Văn Tấn (Cb): Khảo cổ học Việt Nam, TI (Thời đại đá Việt Nam), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr 267-268). 4 Sách Đại Nam nhất thống chí cũng xác nhận; ‘Đền An Dương Vương: Ở núi Mộ Dạ, xã Tập Phúc thuộc huyện Đông Thành, ba xã Hương Ái, Tập Phúc và Hương Quan cùng thờ” (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, TII (tỉnh Nghệ An), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr 165) 5 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr 139 6 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 36 4 địa tằng” (Quan ải hai người có thể chống được cả trăm người là do trời đặt hiểm/ Anh hùng sự nghiệp đất nên công) (Nguyễn Trãi). Biển Đông trong quan niệm của người Việt là vô cùng lớn lao nhưng cũng không phải là không thể chinh phục được. Tục ngữ Việt Nam ngợi ca tình đoàn kết, sức mạnh đồng thuận: “Thuận vợ thuận chồng tát Biển Đông cũng cạn/ Thuận bè thuận bạn tát cạn Biển Đông”. Tiếc rằng sử sách đời xưa ghi chép quá cô đọng nên dù có cố gắng đến mấy cũng khó có thể nhận ra được một cách chính xác những hoạt động của các chính quyền độc lập đầu tiên của Việt Nam trên lĩnh vực này. Mãi đến thời Lý, đặc biệt vào thời vua Lý Anh Tông mới thấy sử chép về các hoạt động của nhà vua và triều đình ở các vùng biển đảo hay có liên quan đến các vùng biển đảo. Các sự kiện lịch sử dưới đây chính là minh chứng cho một chiến lược tương đối đầy đủ và hệ thống của triều đình Lý Anh Tông đối với các vùng biển đảo, từ việc xây dựng các cơ sở quản lý, tổ chức các đội tầu thuyền cho đến việc tiến hành kiểm tra, kiểm soát, xác định ranh giới trên biển, bảo vệ dân chúng và mở rộng các quan hệ giao thương buôn bán với tầu thuyền ngoại quốc: - Tháng 10 năm 1147 Lý Anh Tông cho “dựng hành dinh ở trại Yên Hưng”7. Đây là cơ quan quản lý của triều đình trung ương đối với cửa ngõ yết hầu sông biển quan trọng nhất của đất nước, cũng như toàn bộ các vùng biển đảo của quốc gia Đại Việt nói chung. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì hành dinh trại Yên Hưng cũng chính là trại Yên Hưng thời Trần, nằm ngay bên bờ thuộc tả ngạn sông Bạch Đằng, nay thuộc thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. - Tháng 12 năm 1149 nhân việc thuyền buôn 3 nước Trảo Oa (Java, Indonesia), Lộ Lạc và Xiêm La (đều thuộc Thái Lan ngày nay) vào Hải Đông xin cư trú buôn bán, vua Lý Anh Tông “bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương” 8. Vân Đồn là hải cảng quan trọng vào bậc nhất không chỉ riêng thời Lý mà cả các thời Trần, Lê sau này. Hệ thống các cảng, bến này tuy có sự thay đổi vị trí và cả chức năng trong mỗi thời kỳ lịch sử, nhưng phạm vi được xác định hoàn toàn nằm trên khu vực huyện đảo Vân Đồn của tỉnh Quảng Ninh hiện nay. - Tháng 11 năm 1161 vua Lý Anh Tông “sai Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển Tây Nam để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay 7 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, tr 316 8 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, tr 317 5 là cửa biển Thần Phù) mới trở về” 9. Tư liệu này cho hay Lý Anh Tông đã huy động sức mạnh tổng lực (có đến 2 vạn quân) để bảo vệ và giữ yên miền biển Tây Nam tiếp giáp với biển Chămpa, khẳng định một tầm nhìn xa hơn, rộng hơn và hiệu quả hơn trong chiến lược biển đảo. - Tháng 12 năm 1771 “Vua đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết dân đinh đau khổ và đường đi xa gần thế nào” 10. - Tháng 2 năm 1172 “Vua đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ ghi chép các phong vật rồi về” 11. Tư liệu này cho phép hình dung Lý Anh Tông là vị quân vương không chỉ đặc biệt trong lịch sử Việt Nam mà cũng hết sức đặc biệt trong lịch sử Thế giới là đã trực tiếp điều tra nắm tình hình vẽ bản đồ ranh giới các vùng biển đảo, xác định một cách rành mạch và chính xác vùng biển đảo do mình trực tiếp quản lý (tức là các vùng biển đảo thuộc chủ quyền của quốc gia Đại Việt). - Để thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát, khai thác và bảo vệ các vùng biển đảo của Tổ quốc, Lý Anh Tông còn liên tục cho đóng các thuyền lớn như thuyền Vĩnh Long, Thanh Lan 1, Trường Quyết, Phụng Tiên, Vĩnh Diệu, Thanh Lan 2, Vĩnh Chương, Nhật Long, Ngoạn Thủy12. Bước sang thời Trần, công việc tổ chức khai thác và quản lý và phòng thủ biển đảo càng ngày càng được tổ chức quy củ và hiệu quả hơn. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên thế kỷ XIII của quân dân Đại Việt và Chămpa là một thiên anh hùng ca bất hủ không chỉ của riêng Việt Nam mà là của toàn nhân loại, vì nó đã đánh bại không chỉ một lần mà đến cả ba, bốn lần một đại đế chế hùng mạnh và tàn bạo nhất thế giới đương thời với với những cố gắng cao nhất và những mưu đồ phục thù đến tột cùng, không chỉ hòng tiêu diệt các nước Đông Nam Á, Đông Á mà toàn thế giới. Quân dân Đại Việt và cả quân dân Chămpa hơn ai hết thấy được rất rõ cái yếu căn bản của đạo quân xâm lược Mông - Nguyên là phải chiến đấu trên chiến trường sông nước và biển đảo, nên đã chủ động dựa vào những vị trí sở trường của mình mà tiêu diệt chúng. Trương Phổ, một học giả đời Minh (Trung Quốc) đã tổng kết: “Trấn Nam vương Thoát Hoan tiến binh, vua An Nam Trần Nhật Huyên (tức Thượng hoàng Trần Thánh Tông) đem quân chống lại, quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp, nhưng giữa đường quay giáo lui, quân lính tan nát trong chốn của quân kia, Toa Đô, Lý Hằng đồng thời tử chiến Thoát Hoan xuất quân lần nữa, Nhật Huyên chạy đi để đón lúc về, đánh lúc mệt, 9 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, tr 323 10 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, tr 324 11 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, tr 325 12 Thống kê theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, sđd, từ tràng 316 đến trang 325. 6 quân Nguyên lại thất bại. Đó là vì quân kia tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái khi tàn lụn lúc buổi chiều, giấu mình nơi biển khơi, phục quân chốn ải hiểm, quân Nguyên tuy hùng hổ kéo đến, chưa từng thắng được một trận. Có thể nói Nhật Huyên có tài dùng binh vậy”13. Không phải đến khi tiến đánh Chămpa và Đại Việt vua Nguyên mới nhận ra cái sở đoản lớn nhất trong đội quân đang được coi là bách chiến bách thắng của mình là thủy quân (và hải quân). Tuy nhiên khắc phục hạn chế này không thể là câu chuyện một sớm, một chiều. Trong khi đó Chămpa và Đại Việt là những quốc gia có nhiều lợi thế và tiềm năng trên biển, đã triệt để khai thác sức mạnh của biển đảo để tổ chức đánh bại quân Nguyên trên nhiều vùng chiến trường sông nước khác nhau và cuối cùng quy tụ sức mạnh của cả nước vào một điểm tử huyệt ở cửa biển Bạch Đằng14, dìm xác toàn bộ 400 chiến thuyền và hàng vạn tên giặc chỉ trong một con nước triều ngày 9 tháng 4 năm 1288. Ngày 15 tháng 4 năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, trong Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 (được coi là Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai trong lịch sử Việt Nam), Lê Thái Tổ - vị Hoàng đế sáng lập vương triều Lê khẳng định dù có tát cạn nước Đông Hải東 海 (Biển Đông) thì cũng không đủ rửa hết tanh nhơ do quân Minh gây ra15. Tên gọi Biển Đông (Đông Hải) như thế đã trở thành hết sức phổ biến trong cuộc sống đời thường của cộng đồng cư dân Việt. Năm 1438 Nguyễn Trãi viết Dư địa chí 輿 地 誌 (bộ Địa lý lịch sử chính thức đầu tiên của quốc gia Đại Việt) xác định rõ vùng biển tương đương với lãnh thổ cổ truyền của người Việt tính cho đến Quảng Bình là Đông Hải東 海16 (Biển Đông) và biển ở khu vực được tích hợp vào lãnh thổ Đại Việt từ thời Lý cho đến đầu đời Lê Sơ được gọi là Nam Hải 南 海17 (Biển Nam). Có thể hình dung Biển Đông của Viêt Nam trong thời kỳ Cổ đại, nếu tính theo dòng chính của lịch sử thì chỉ tương đương với vùng biển phía Đông của dải bờ biển nước Văn Lang - Âu Lạc thời kỳ dựng nước đầu tiên, hay là dải bờ biển của các quận Giao Chỉ, Cửu Chân thuộc châu Giao Chỉ (hay Giao Châu) trong thời kỳ Bắc thuộc. Hẳn là vì thế mà sử sách Trung Quốc không gọi vùng 13 Trần Bang Chiêm: Nguyên sử kỷ sự bản mạt, Thương vụ ấn thư quán, Q5, t 24, dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr 329 14 Nói như Phạm Sư Mạnh đời Trần: “Vũ trụ kỳ quan dương cốc nhật; Giang sơn vượng khí Bạch Đằng thu”. 15 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 284 16 Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr 218 17 Nguyễn Trãi Toàn tập, sđd, tr 234 7 này là Biển Đông theo tên Việt Nam mà gọi là biển Giao Chỉ (Giao Chỉ Dương 交 阯 洋). Phạm vi biển Giao Chỉ được tính từ vùng địa đầu của Quảng Bình kéo ra cửa vịnh Bắc Bộ, tương đương với khu vực phía bắc Biển Đông hiên nay. Phía ngoài khơi của biển Giao Chỉ là Đông Đại Dương. Sách Lĩnh Ngoại đại đáp do Chu Khứ Phi - Tiến sĩ đời Tống, soạn năm 1178 chủ yếu viết về khu vực An Nam đã nói rất rõ: “Biển phía Tây Nam của 4 quận miền Nam, thì biển lớn nhất gọi là biển Giao Chỉ (Giao Chỉ Dương), trong có Tam Hợp Lưu 三 合 流sóng vỗ dữ dội chia ra 3 ngả. Một ngả chảy về Nam thông vào biển các nước phiên; một ngả chảy về Bắc vào biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang, Chiết; một ngả chảy về Đông mênh mông không bờ gọi là biển Đông Đại Dương (Đông Đại Dương Hải 東 大 洋 海). Tàu thuyền qua lại từ phía Nam tất phải qua Tam Hợp Lưu, gặp gió thuận thì chốc lát vượt qua; nếu không có gió mà qua nơi nguy hiẻm ấy thì thuyền không ra được, bị tan vỡ vào trong ba luồng chẩy. Hỏi thì người ta truyền nhau rằng ở biển Đông Đại Dương có Trường Sa 長 沙và Thạch Đường石 塘 kéo dài vạn dặm, đuôi nó vươn dài rồi chìm ngập vào chín tầng sâu. Xưa có thuyền bị gió tây thổi mạnh lùa đến cuối Đông Đại Hải, chỉ nghe tiếng sóng ầm vang rồi mất tích luôn. Nay may gặp gió đông lớn thì thoát khỏi...”18. Sách cũng cho biết các nước phiên (tức là các nước phiên thuộc của Trung Quốc và mặc nhiên những nước này nằm ngoài Trung Quốc và không phải Trung Quốc) có nhiều hóa vật quý báu thì nhất là nước Đại Thực, thứ đến nước Đồ Bà, thứ nữa đến nước Tam Phật Tề, rồi mới đến các nước khác. “Nước Tam Phật Tề (nay thuộc Indonesia) muốn đến Trung Quốc, thuyền phải đi hướng chính bắc qua đảo Thượng Trúc, Hạ Trúc, qua biển Giao Chỉ, rồi mới đến được Trung Quốc. Nước Đồ Bà muốn đến Trung Quốc thì thuyền phải theo hướng đông bắc, qua hòn Thập Nhị Tứ Thạch, rồi nhập theo đường đi của Tam Phật Tề. Nước Chiêm Thành và Chân Lạp đều nằm ở phía nam biển Giao Chỉ, đường biển đi sang Trung Quốc không bằng nửa đường đi của Tam Phật Tề, Đồ Bà. Các nước phiên đến Trung Quốc thường cả đi lẫn về trong một năm, duy nước Đại Thực cả đi lẫn về phải hai năm”19. Không chỉ có người Trung Quốc mà cả người phương Tây cũng đều gọi vùng biển tiếp theo Biển Đông của Đại Việt về phía Nam là biển Chiêm Thành占城 洋 (hay biển Chămpa). Vùng biển Chiêm Thành (hay biển Chămpa) 18 Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, Quyển 3, Ngoại quốc hạ, tr 11 (bản chữ Hán) 19 Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, Quyển 3, Ngoại quốc hạ, tr 11 (bản chữ Hán) 8 truyền thống được tính tương đương với khu vực biển đảo từ bờ biển Trung Bộ và Nam Trung Bộ Việt Nam kéo thẳng ra giữa Biển Đông. Trên nền tảng của văn hóa Sa Huỳnh thuộc vào sơ kỳ thời đại đồ Sắt, nền văn hóa Chămpa được hình thành và phát triển. Trong quá trình hình thành và phát triển này, do chịu tác động rất mạnh và đồng thời của nhiều nền văn hóa từ bên ngoài vào như văn hóa Đông Sơn, văn hóa Hán từ phía bắc, văn hóa Ấn Độ và nhiều nền văn hóa khác ở khu vực Đông Nam Á từ phía nam và tây nam nên bản thân văn hóa Chămpa đã diễn ra quá trình biến đổi vô cùng phức tạp. Ở mỗi nơi, mỗi lúc, trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, với mỗi loại hình cụ thể, đều có những đặc điểm riêng. Cư dân chủ nhân của vương quốc Chămpa là người Chăm cổ, vốn là con cháu của người Sa Huỳnh cổ, nói tiếng Malayo-polynesien. Người Sa Huỳnh - Chămpa là cư dân bản địa của dải đất ven biển miền Trung Việt Nam tính từ Hoành Sơn - Sông Gianh (Quảng Bình) ở phía bắc cho đến sông Dinh - Hàm Tân (Bình Thuận) ở phía nam và mở rộng đến lưu vực sông Krông Pô Cô và sông Đà Rằng ở Tây Nguyên20. Đây là dải đất “chân Trường Sơn đạp sóng Thái Bình”, núi ăn ra sát biển, sông ngắn, dốc, đồng bằng nhỏ hẹp, độ phì nhiêu không cao, lại bị phân cách bởi hệ thống đèo ngang liên tiếp nên rất khó ổn định và sinh tồn nếu như chỉ biết dựa vào đất đai khô cằn và sinh kế nông, lâm nghiệp cổ truyền. Để tồn tại và phát triển, người Sa Huỳnh và tiếp sau là người Chămpa không còn con đường nào khác là phải tiến ra biển, tìm ở biển một con đường sống mới của cộng đồng, trước hết là khai thác hệ thống đường duyên hải và đảo gần bờ làm cầu nối gắn kết các tiểu vùng với nhau thành một thực thể văn hóa Chămpa với những đặc trưng chính trị, hành chính và văn hóa chung, rồi sau đó vươn ra xa hơn, khai thác các nguồn lợi, lợi thế vốn có của các vùng giữa Biển Đông và nam Biển Đông làm nguồn sống chung và tạo nên sức mạnh của cả cộng đồng. Từ năm 1993 đến năm 1999, Viện Khảo cổ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) đã nhiều lần tiến hành điều tra và hai lần khai quật trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Kết quả khai quật ở 4 đảo Trường Sa Lớn, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca và điều tra, thám sát trên 6 đảo khác đã phát hiện được các di tích, di vật 20 Tại khu vực trường phổ thông trung học Lý Thường Kiệt thuộc tổ 6 phường Hòa Bình thị xã Ayun Pa (tỉnh Gia Lai) xua có khu rừng rậm gọi là Mả Ông Vua là di tích tháp Chăm, nay chỉ còn phế tích gạch ngói Chăm. Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng trước đây có trưng bày tượng thần Hinđu được lấy về từ di tích này, khi đó mang tên di tích Yang Mum. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh Đắc Lắc thuộc thôn 5, xã Ea Rốk, huyện Ea Súp cũng có di tích tháp Chăm Yang Prong (tháp thờ Thần Lớn - thần Shiva). Trong khu vực cũng có giếng Chăm, mộ cổ của người Chăm... Những tư liệu này góp phần xác định vương quốc Chămpa cũng từng phát triển lên Tây Nguyên ở phía Tây. Tuy nhiên số lượng các di tích không nhiều và không phải là các di tích có niên đại sớm. Phạm vi lãnh thổ của vương quốc Chămpa trên đất Tây Nguyên đến đâu là vấn đề cần phải được tiếp tục ngjhiên cứu. 9 thuộc thời đại sắt sớm (tương đương với văn hóa Sa Huỳnh muộn - Champa sớm) ở ven biển miền Trung Việt Nam. Đoàn công tác còn tìm thấy trên các đảo này các mảnh gốm sứ từ thế kỷ XIII- XIV, đến thế kỷ XVII-XVIII, là những mảnh hoa văn chìm dưới men, nhũng mảnh trôn bát bôi màu sô-cô-la cho đến những mảnh vẽ hoa lam muộn. Theo GS Hà Văn Tấn, Chủ nhiệm chương trình thì: “Chúng ta có thể nói rằng đã tìm được những chứng tích khoa học hiển nhiên về các hoạt động trên biển của cả cư dân tiền sử Việt Nam cũng như của người Việt Nam trong lịch sử, mặt khác là có được những tư liệu, cũng hiển nhiên, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải quốc gia”21. Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để có thể khẳng định trên các đảo thuộc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã có người từ thời tiền sử cho đến người Việt Nam trong nhiều thế kỷ liên tục cho đến ngày nay qua lại, làm ăn và cư trú. Nhiều bản đồ hàng hải phương Tây đánh dấu ở khu vực quần đảo Hoàng Sa 潢 沙 (được gọi chung là Pracel hay Paracels) cái tên hết sức có ý nghĩa là Baxos de Chapar (bãi đá ngầm Chămpa) và Pulo Capaa (đảo của Chămpa), trong đó tiêu biểu nhất là các bản đồ của nhà Đia lý học Hà Lan G. Mercator (1569) vẽ quần đảo Hoàng Sa giống như hình một con dao dài được ghi chú bằng 2 nhóm từ “Baixos de Chapar” (Bãi ngầm Chămpa) ở phía trên và “Pulo Capaa” (đảo của Chămpa) ở phía dưới22... Thừa nhận mối quan hệ mật thiết giữa vùng biển đảo ở giữa Biển Đông với vùng duyên hải đối diện vốn thuộc vương quốc Chămpa nên nhiều bản đồ phương Tây cuối thế kỷ XVI đã vẽ một cách rõ ràng và và chính xác các quần đảo Pracel (Paracels) và khu vực duyên hải miền Trung tương đương với tỉnh Quảng Ngãi sau này là Costa da Pracel hay Costa de Pracel (Bờ biển Hoàng Sa). Chẳng hạn có thể thấy rất rõ ở 2 tấm bản đồ của Bartholome Lasso (1590 và 1592-1594) vẽ quần đảo Pracel (Hoàng Sa) ở ngoài khơi và dải duyên hải đối diện (tương đương với khu vực Quảng Ngãi) được đánh dấu là Costa da Pracel 21 Hà Văn Tấn: Nhận xét về kết quả của các chương trình khảo cổ học Trường Sa, Tây Nguyên và Nam Bộ. Tạp chí Khảo cổ học số 4-1996, tr 7. 22 Cũng cần phải nói thêm là gần đây một số nhà nghiên cứu Trung Quốc như Hàn Chấn Hoa, Đới Khả Lai, Lý Quốc Cường, Vu Hướng Đông do không có cách nào phủ định được chủ quyền thật sự và hiển nhiên của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa (qua nguồn bản đồ và thư tịch cổ Việt Nam) và Pracel, Paracels (qua nguồn bản đồ và thư tịch cổ phương Tây) đã cố tình gán cho các địa danh Hoàng Sa, Trường Sa hay Pracel, Paracels chỉ là các đảo và dải cát ven bờ biển miền Trung Việt Nam. Nếu chỉ nghiên cứu các tấm bản đồ này, một người có trí tuệ thông thường cũng hoàn toàn có thể nhận ra sự phân biệt hết sức rạch ròi giữa các đảo ven bờ với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay Pracel, Paracels giữa Biển Đông. Điều này chúng tôi cũng đã có dịp phát biểu và thảo luận thẳng thắn, trực diện với các chuyên gia Trung Quốc, trong đó có GS.TS Vu Hướng Đông là một trong những tác giả nêu trên tại cuộc Đối thoại trí thức Trung - Nhật - Việt tổ chức tại Đại học Waseda (Tokyo, Nhật Bản) đầu tháng 6 năm 2012. (Tham khảo phát biểu tổng kết của GS Trần Văn Thọ qua phỏng vấn của nhà báo Thu Hà trong bài viết Chủ quyền Biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận mình đăng trên Tuần Vienamnet ngày 24 tháng 8 năm 2012. dinh-so-phan-minh). 10 (bờ biển Hoàng Sa). Đặc biệt tấm bản đồ của anh em Van Langren người Hà Lan vẽ năm 1595 đánh dấu rất rõ ràng I.de Pracel ở ngoài khơi và Costa de Pracel là vùng bờ biển nằm ở phía bên trong Pulo Catam (Cù Lao Ré) thuộc tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Như thế có thể hình dung tuy không có tuyên bố chủ quyền một cách rõ ràng minh bạch như các Hiệp định, Hiệp ước của thời kỳ hiện đại, nhưng trong thực tế, người Chăm và vương quốc Chămpa với những hoạt động mưu sinh và cuộc sống gắn bó máu thịt trên các vùng biển đảo từ các đảo ven bờ cho đến các quần đảo giữa Biển Đông và nam Biển Đông đã là các chủ nhân chân chính và duy nhất của tất cả các vùng biển đảo này. Năm 1069 nhà Lý lấy được của Chiêm Thành 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (tương đương với tỉnh Quảng Bình và địa đầu tỉnh Quảng Trị). Năm 1301 Trần Nhân Tông gả con gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân và Chế Mân đã lấy 2 châu Ô, Lý (tương đương với vùng Quảng Trị, Thừa Thiên) để làm đồ sính lễ cho nhà Trần. Năm 1402 Hồ Quý Ly đang ở cương vị Thái Thượng hoàng, cùng con là vua Hồ Hán Thương thân chinh đi đánh Chiêm Thành, chiếm được 2 châu Đại Chiêm (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và đặt thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Địa giới Đại Việt đến trước thời điểm bị quân Minh xâm lược đã được mở rộng đến tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1428, sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Minh, vương triều Lê xác định quyền cai quản đất nước Đại Việt bao gồm toàn bộ phần lãnh thổ đã mất vào tay quân Minh trước đây. Do lãnh thổ Đại Việt càng ngày càng được mở rộng về phía Nam, nên lãnh hải cũng được mở rộng tương ứng. Tuy nhiên cho đến giữa thế kỷ XV, Đại Việt vẫn giữ quan niệm truyền thống về vùng Biển Đông và đặt tên chung cho toàn bộ vùng biển phía bắc của biển Chiêm Thành đã được tích hợp vào lãnh hải Đại Việt suốt thời Lý, Trần, Hồ, đầu Lê Sơ là Nam Hải 南 海 (Biển Nam) để phân biệt với Biển Đông truyền thống (Đông Hải 東 海) ở phía Bắc. 2. Biển Đông trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc Nam tiến, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước Việt Nam Dưới thời Lê, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497), Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển vô cùng quan trọng của quốc gia Đại Việt. 11 Năm 1471 Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn đánh bại vương triều Vijaya của Chămpa và tiếp tục mở mang bờ cõi xuống phía nam. Để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh đại quy mô này, Lê Thánh Tông đã huy động 25 vạn thủy quân đi trước. Riêng ông trực tiếp chỉ huy hơn 1000 chiến thuyền và hơn 70 vạn tinh binh “dựng cờ Thiên tử, đánh trống hò reo mà tiến”23. Trước đó ông còn “xuống chiếu cho quân Thuận Hóa ra biển tập thủy chiến”24 để thực hiện kế hoạch đánh chiếm các vùng biển đảo trước khi mở cuộc tấn công quyết định và kinh thành Chămpa. Ông còn “sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ hình thế hiểm dị của nước Chiêm để dâng lên”25. Thành Chà Bàn (Vijaya) bị hạ nhanh chóng, vua Chămpa là Trà Toàn bị bắt, chỉ có một tướng của Trà Toàn là Bô Trì Trì “chạy đến Phiên Lung (tức Phan Rang, Ninh Thuận ngày nay) chiếm cứ đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành, Trì Trì lấy được một phần năm đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được phong làm vương. Vua phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để dễ ràng buộc” 26. Như thế đến đây phạm vi lãnh thổ của quốc gia Đại Việt đã chính thức được mở rộng cho đến đèo Cù Mông (phía nam của tỉnh Bình Định hiện nay). Lực lượng còn lại của vương triều Vijaya lùi sâu vào cố thủ ở phía Nam đèo Cả. Lê Thánh Tông lấy đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả lập ra 2 tiểu quốc là Nam Bàn (dọc theo dải núi rừng ở phía trên) và Hoa Anh (dọc theo dải ven biển ở phía dưới) tạo thành khu đệm giữa Chămpa và Đại Việt27. Trong khi đó ông mặc nhiên làm chủ toàn bộ dải ven biển kéo dài đến Phan Rang28. Năm 1490 ông cho hoàn thành bản đồ toàn quốc gồm 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 23Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 448 24 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 447 25 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 448 26 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 450 27 Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, sđd, tr 450 chú thích (2) cho rằng Nam Bàn: Theo Cương mục sau là đất của Thủy Xá, Hỏa Xá, nay là vùng đất thuộc tỉnh Gia Lai - Công Tum và
File đính kèm:
- chuyen_de_bien_dong_viet_nam_qua_trinh_nhan_thuc_va_khai_chi.pdf