Tài liệu tham khảo Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài - Năm học 2016-2017

1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:

Như chúng ta đã biết đối tượng trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng có đặc điểm tâm sinh lí đặc thù là khả năng tập trung chú ý, ghi nhớ có chủ định ngắn, nếu khoảng thời gian cần tập trung cho một hoạt động kéo dài sẽ làm cho trẻ mệt mỏi, kém thích thú với hoạt động đó dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao. Trẻ thích được tham gia các trò chơi và việc trẻ chơi trò chơi cũng giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với kiến thức hơn. Trong khi đó, các trò chơi dân gian của Việt Nam thường mang tính ước lượng và thời gian chơi thường phụ thuộc vào hứng thú của chính người chơi, đặc biệt là những lời ca trong trò chơi dân gian thường giản dị, mang tính vần điệu, dễ thuộc, dễ nhớ, các vận động trong trò chơi dân gian thường gần gũi với đời sống hàng ngày. Những ưu điểm lớn đó của trò chơi dân gian giúp trẻ dễ dàng tiếp cận, hiểu và thích được chơi trò chơi.

Ví dụ với trò chơi “ Dung dăng dung dẻ: Các bạn tham gia chơi nắm tay nhau vừa đi vừa đung đưa tay ra phía trước rồi ra sau theo nhịp bài đồng dao:

“Dung dăng dung dẻ Cho dê đi học

Dắt trẻ đi chơi Cho cóc ở nhà

Đến ngõ nhà trời Cho gà bới bếp

Lạy cậu lậy mợ Xì xà xì xụp

Cho cháu về quê Ngồi thụp xuống đây”

Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi đứng dậy vừa đi vừa đọc đồng dao tiếp, trò chơi lại tiếp tục. Trẻ có thể dừng chơi trò chơi ở lần chơi mà trẻ muốn.

Ngoài ra, sau khi tổ chức cho trẻ chơi một số trò chơi đơn giản tôi nhận thấy trẻ tập trung chú ý, hoạt động tích cực hơn, trẻ hay đọc nhẩm những lời ca của trò chơi, thích thú với những lời ca đó. Bước đầu tôi dần khẳng định được: Việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian không những giúp trẻ phát triển về thể chất, trí tuệ mà còn là một công cụ hữu ích giúp trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số được tăng cường về tiếng Việt, khắc phục hạn chế về ngôn ngữ phổ thông của trẻ.

Năm học 2015 – 2016, được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường, tôi nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp ghép 2, 3, 4, 5 tuổi Bản Trung Chải từ tháng 9 năm 2015. Qua thực tế giảng dạy và chăm sóc trẻ tại nhóm lớp tôi nhận thấy: Học sinh trong nhóm lớp chiếm 100% là con em đồng bào dân tộc thiểu số lứa tuổi của trẻ không đồng đều; trẻ rụt rè, nhút nhát và vốn ngôn ngữ phổ thông còn hạn chế nhiều. Trẻ thường được học tiếng mẹ đẻ trước khi làm quen với ngôn ngữ phổ thông nên đã tạo ra những lỗi phát âm cho trẻ trong giao tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông, trẻ nói ngọng, không tròn vành, rõ chữ. Là một giáo viên mầm non, tôi luôn mong muốn tìm các biện pháp để khắc phục yếu điểm về ngôn ngữ phổ thông cho trẻ và qua quá trình trải nghiệm thực tế tôi nhận thấy việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ là cách làm có hiệu quả cao và thu hút được trẻ. Vì vậy tôi lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài”.

Sáng kiến nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm khắc phục thực trạng tìm ra nguyên nhân hạn chế, đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế, giúp giáo viên dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động trò chơi từ đó trẻ được phát triển toàn diện về ngôn ngữ cho trẻ.

doc 13 trang Phương Mai 21/06/2025 480
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu tham khảo Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài - Năm học 2016-2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu tham khảo Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài - Năm học 2016-2017

Tài liệu tham khảo Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động  trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài - Năm học 2016-2017
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM ĐƯỜNG
 TRƯỜNG MẦM NON SÙNG PHÀI
 THUYẾT MINH SÁNG KIẾN
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi 
 dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài 
 Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Hạnh
 Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non
 Chức vụ: Giáo viên
 Nơi công tác: Trường Mầm non Sùng Phài - huyện Tam Đường 
- tỉnh Lai Châu.
 Sùng Phài, ngày 25 tháng 3 năm 2016
 I. THÔNG TIN CHUNG
 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 
thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải 
trường mầm non Sùng Phài”.
 2. Tác giả:
 Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Hạnh
 Năm sinh: 07/ 09/ 1983 
 Nơi thường trú: Tổ 25 - Phường Đông Phong – Thành phố Lai Châu - 
Tỉnh Lai Châu.
 Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non.
 Chức vụ công tác: Giáo viên.
 Nơi làm việc: Trường mầm non Sùng Phài
 Điện thoại: 0963092666
 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 
 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn mầm non.
 4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 01 tháng 9 năm 2015 đến ngày 
25 tháng 03 năm 2016
 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: 
 Tên đơn vị: Trường mầm non Sùng Phài.
 Địa chỉ: Xã Sùng Phài - huyện Tam Đường - tỉnh Lai Châu.
 Điện thoại: 02313751768
 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: 
 Như chúng ta đã biết đối tượng trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 
nói riêng có đặc điểm tâm sinh lí đặc thù là khả năng tập trung chú ý, ghi nhớ có 
chủ định ngắn, nếu khoảng thời gian cần tập trung cho một hoạt động kéo dài sẽ 
làm cho trẻ mệt mỏi, kém thích thú với hoạt động đó dẫn đến hiệu quả hoạt động 
không cao. Trẻ thích được tham gia các trò chơi và việc trẻ chơi trò chơi cũng giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với kiến thức hơn. Trong khi đó, các trò chơi dân gian 
của Việt Nam thường mang tính ước lượng và thời gian chơi thường phụ thuộc 
vào hứng thú của chính người chơi, đặc biệt là những lời ca trong trò chơi dân 
gian thường giản dị, mang tính vần điệu, dễ thuộc, dễ nhớ, các vận động trong 
trò chơi dân gian thường gần gũi với đời sống hàng ngày. Những ưu điểm lớn đó 
của trò chơi dân gian giúp trẻ dễ dàng tiếp cận, hiểu và thích được chơi trò chơi. 
 Ví dụ với trò chơi “ Dung dăng dung dẻ: Các bạn tham gia chơi nắm tay 
nhau vừa đi vừa đung đưa tay ra phía trước rồi ra sau theo nhịp bài đồng dao: 
 “Dung dăng dung dẻ Cho dê đi học
 Dắt trẻ đi chơi Cho cóc ở nhà
 Đến ngõ nhà trời Cho gà bới bếp
 Lạy cậu lậy mợ Xì xà xì xụp 
 Cho cháu về quê Ngồi thụp xuống đây”
 Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi đứng 
dậy vừa đi vừa đọc đồng dao tiếp, trò chơi lại tiếp tục. Trẻ có thể dừng chơi trò 
chơi ở lần chơi mà trẻ muốn.
 Ngoài ra, sau khi tổ chức cho trẻ chơi một số trò chơi đơn giản tôi nhận 
thấy trẻ tập trung chú ý, hoạt động tích cực hơn, trẻ hay đọc nhẩm những lời ca 
của trò chơi, thích thú với những lời ca đó. Bước đầu tôi dần khẳng định được: 
Việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian không những giúp trẻ phát triển về 
thể chất, trí tuệ mà còn là một công cụ hữu ích giúp trẻ mẫu giáo vùng dân tộc 
thiểu số được tăng cường về tiếng Việt, khắc phục hạn chế về ngôn ngữ phổ 
thông của trẻ. 
 Năm học 2015 – 2016, được sự phân công của Ban giám hiệu nhà 
trường, tôi nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp ghép 2, 3, 4, 5 tuổi Bản Trung 
Chải từ tháng 9 năm 2015. Qua thực tế giảng dạy và chăm sóc trẻ tại nhóm 
lớp tôi nhận thấy: Học sinh trong nhóm lớp chiếm 100% là con em đồng 
bào dân tộc thiểu số lứa tuổi của trẻ không đồng đều; trẻ rụt rè, nhút nhát 
và vốn ngôn ngữ phổ thông còn hạn chế nhiều. Trẻ thường được học tiếng 
mẹ đẻ trước khi làm quen với ngôn ngữ phổ thông nên đã tạo ra những lỗi phát âm cho trẻ trong giao tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông, trẻ nói ngọng, 
không tròn vành, rõ chữ. Là một giáo viên mầm non, tôi luôn mong muốn 
tìm các biện pháp để khắc phục yếu điểm về ngôn ngữ phổ thông cho trẻ và 
qua quá trình trải nghiệm thực tế tôi nhận thấy việc tổ chức các trò chơi 
dân gian cho trẻ là cách làm có hiệu quả cao và thu hút được trẻ. Vì vậy tôi 
lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ 
cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản 
Trung Chải trường mầm non Sùng Phài”.
 Sáng kiến nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm khắc phục 
thực trạng tìm ra nguyên nhân hạn chế, đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế, 
giúp giáo viên dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động trò chơi từ đó trẻ 
được phát triển toàn diện về ngôn ngữ cho trẻ.
 2. Phạm vi triển khai thực hiện: 
 28 trẻ ghép 4 dộ tuổi ( 2,3,4,5 tuổi) lớp mẫu giáo lớn bản Trung Chải - 
Trường mầm non Sùng Phài.
 3. Mô tả sáng kiến:
 a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
 Về cơ sở vật chất: phòng học, sân chơi tương đối đảm bảo, sạch sẽ, 
thoáng mát. Tỷ lệ chuyên cần đạt 88 % trở lên.
 Về giáo viên: Giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có 10 
năm kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ nên cũng nắm bắt được tâm sinh lí 
của trẻ, nắm vững chương trình giáo dục mầm non. Luôn có tinh thần tự 
học hỏi đồng nghiệp để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, đạt danh hiệu 
giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
 Về trẻ: Đa số trẻ thụ động khả năng ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, nhiều 
trẻ chưa biết tiếng phổ thông, có trẻ biết tiếng phổ thông nhưng còn nói ngọng 
nhiều, chưa mạnh dạn tự tin thi tham gia các hoạt động tập thể và giao tiếp với 
mọi người xung quanh. 100% trẻ là người dân tộc Mông do đó tôi đã tiến hành 
khảo sát 28 trẻ tại lớp như sau: Thời điểm khảo sát: Tháng 9/2015
 Nội dung Tổng số học Đạt chưa đạt
 sinh TS % TS %
Trẻ chưa biết tiếng phổ thông 28 23 82,1 5 17,9
Biết sử dụng tiếng phổ thông 28 15 53 13 47
Sử dụng tốt tiếng phổ thông 28 8 28,6 20 71,4
Trẻ nói ngọng 28 0 0 28 100
Trẻ mạnh dạn tham gia hoạt động 28 8 28,6 20 71,4
tập thể 
 Về phụ huynh: Chưa phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc giáo 
dục trẻ nhiều khi còn cho trẻ nghỉ học tự do. Đại đa số các bậc phụ huynh trong 
bản đều giao tiếp với con em bằng tiếng địa phương. 
 Qua các giải pháp mà tôi đã thực hiện những năm học trước và kết quả 
khảo sát học sinh đầu năm chúng tôi nhận thấy những ưu điểm và cần khắc phục 
những hạn chế của giải pháp cũ như sau: 
 Giải pháp 1: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh và tổ chức đoàn 
viên tại thôn bản 
 Ưu điểm: Đã có sự nhận thức đưa con em đi học thường xuyên, đúng giờ.
 Hạn chế: Phụ huynh học sinh đại đa số đều còn khó khăn, thường xuyên đi làm 
nương rẫy ở xa, trẻ thường tự đi học, các cháu trong độ tuổi đi học của các cấp học tự 
chăm sóc nhau nên việc trao đổi thông tin hai chiều cũng như phối kết hợp giữa nhà 
trường và gia đình trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn. 
 Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp 
cho trẻ chơi.
 + Ưu điểm: Ngay từ đầu năm học được sự chỉ đạo sát sao của ban giám 
hiệu, chuyên môn nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch lựa chọn được các trò 
chơi dân gian. Bản thân tôi đã có 10 năm kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ 
nên cũng nắm bắt được tâm sinh lí của trẻ.
 + Hạn chế: Khi thực hiện xây dựng kế hoạch tôi chưa chú ý trong việc lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp với chủ đề và xây dựng kế hoạch cụ thể theo 
từng chủ đề để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 Giải pháp 3: Chuẩn bị chu đáo đồ dùng, lời ca, sân chơi trước khi tổ chức 
cho trẻ chơi 
 + Ưu điểm: Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành và 
trực tiếp là Phòng Giáo Dục và Đào Tạo, Ban giám hiệu nhà trường, lớp học 
được trang bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.
 + Hạn chế: Một số đồ dùng chưa đảm bảo, sân chơi còn hơi nhỏ. 
 * Phân tích các giải pháp trước khi thực hiện sáng kiến
 Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh và tổ chức đoàn viên tại thôn 
bản: Được Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn đã chỉ đạo tôi đã truyên 
truyền phối kết hợp với phụ huynh và các tổ chức đoàn viên tại thôn bản về việc 
tăng cường phát triển ngôn ngữ cho trẻ, phụ huynh đã nhận thức được tầm quan 
trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Xong một số phụ huynh ngay bản 
thân họ cũng không sử dụng thành thạo tiếng phổ thông. Nên hiệu quả chưa cao. 
 Xây dựng kế hoạch lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp cho trẻ chơi: 
Giáo viên đã quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch xong lựa chọn trò chơi còn 
chưa phong phú chưa phù hợp với chủ đề. 
 Chuẩn bị chu đáo trước khi tổ chức cho trẻ chơi: Lớp học được trang bị 
cơ sở tương đối đầy đủ. Giáo viên đã quan tâm đến việc làm đồ dùng, đồ chơi để 
phục vụ cho trò chơi song đồ dùng còn chưa phong phú, chưa đảm bảo về chất 
lượng nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức trò chơi cho trẻ.
 Từ thực tế đó tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa thực sự hiệu quả. 
Chính vì vậy tôi đã lựa chọn hoạt động tổ chức thường xuyên các trò chơi dân gian 
bằng những biện pháp mới nhằm thu hút sự chú ý và khích lệ trẻ mạnh dạn, tự tin 
hơn trong các hoạt động, giúp trẻ có cơ hội giao lưu, giao tiếp với bạn bè nhiều hơn, 
xóa đi khoảng cách về ngôn ngữ giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và hơn thế nữa là tạo 
tiền đề tốt về ngôn ngữ để trẻ tìm hiểu, tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất giúp trẻ 
phát triển một cách toàn diện và những thay đổi trong tổ chức trò chơi dân gian sẽ 
giúp cải thiện nâng cao đáng kể vốn ngôn ngữ phổ thông của trẻ. b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
 * Tính mới: 
 Trẻ chủ động tham gia các hoạt động phát triển ngôn ngữ, trẻ biết tiếng 
phổ thông, nhiều trẻ sử dụng thành thạo tiếng phổ thông, mạnh dạn tự tin trong 
giao tiếp và tham gia các hoạt động tập thể. 
 Giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, linh hoạt lựa chọn, tổ chức 
các trò chơi dân gian và xây dựng kế hoạch phù hợp.
 Trẻ được tham gia các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc dân tộc Mông.
 * Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch, lựa chọn các trò chơi dân gian phù 
hợp cho trẻ chơi 
 Phát triển ngôn ngữ có thể nói là lĩnh vực quan trọng nhất trong chương 
trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, vì vậy để cung cấp vốn từ, rèn luyện và 
phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi ưu tiên lựa chọn xây dựng kế hoạch cụ thể từng 
chủ đề các trò chơi có lời ca: Chủ đề bản thân tôi lựa chọn trò chơi “tập tầm 
vông, chi chi chành chành, nu na nu nống”. Chủ đề gia đình: Tôi lựa chọn trò 
chơi “Dung dăng dung dẻ”. Chủ đề nghề nghiệp tôi lựa chọn trò chơi “rồng rắn 
lên mây”. Chủ đề Thực vật và mùa xuân tôi lựa chọn trò chơi “trồng nụ trồng 
hoa, Ném còn, ném pao”. Chủ đề động vật tôi lựa chọn trò chơi “thả đỉa ba ba” 
Chủ đề Nước và hiện tượng tự nhiên tôi lựa chọn trò chơi “trốn tìm, kéo co”
 Những trò chơi có lời ca vừa tạo cơ hội cho trẻ được đọc, được chơi vừa tạo cho 
trẻ niềm vui thích với những câu chuyện ngộ nghĩnh có trong lời ca mà trẻ đọc như: 
 Rồng rắn lên mây
 Có cây lúc lắc
 Hỏi thăm thấy thuốc
 Có nhà hay không?
 Thầy trả lời, thầy thuốc không có nhà, trẻ lại tiếp tục đọc lần 2,3. Sau khi 
trẻ đọc lần 3 kết thúc đến câu cuối, thầy thuốc nói “ Có tôi xin khúc đầu”. Mẹ 
con rồng rắn trả lời: “ Khúc đầu cùng xẩu, cùng xương”.
 Thầy thuốc: Cho tôi xin khúc giữa: Khúc giữa không ăn được
 Thầy thuốc: Cho tôi xin khúc đuôi: Tha hồ mà đuổi Trẻ làm thầy thuốc rất thích thú khi được đuổi bạn, các trẻ làm mẹ con rồng rắn 
cũng sôi nổi ngăn và tránh bị thầy thuốc bắt. 
 Thông qua trò chơi Rồng rắn trẻ được đọc lời ca đối thoại cùng bạn qua 
đó trẻ được làm quen với nhiều từ mới, từ đó vốn từ của trẻ cũng được tăng 
nhanh thông qua giao tiếp trong khi chơi.
 Do đặc điểm của trẻ mầm non là dễ nhớ mau quên nên tôi lựa chọn các 
trò có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ chơi, dễ nhớ. Ví dụ trò chơi thả đỉa ba 
ba, kéo co, trốn tìm... 
 Bên cạnh đó chọn trò chơi cho trẻ chơi phù hợp với khả năng của trẻ: 
Đảm bảo trẻ ở cả 4 lứa tuổi đều có thể chơi được.
 Trong quá trình chơi tôi cũng luôn luôn khuyến khích, động viên trẻ cùng 
tham gia, khám phá những trò chơi dân gian, có thể trẻ 2 - 3 tuổi chưa thể chơi 
khéo léo và phản ứng nhanh như trẻ 4 - 5 tuổi, 5 - 6 tuổi nhưng khi được cùng 
tham gia trò chơi với các bạn lớn hơn sẽ tạo động lực hối thúc trẻ tích cực tham 
gia hoạt động và trong quá trình chơi, trẻ không chỉ học được cách chơi từ sự 
hướng dẫn của giáo viên mà trẻ còn học hỏi được từ chính những bạn lớn hơn 
trong lớp. 
 * Giải pháp 2: Chuẩn bị chu đáo đồ dùng, sân chơi, lời ca trước khi tổ 
chức cho trẻ chơi 
 Trước khi tổ chức cho trẻ chơi đầu tiên tôi chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho 
trẻ, đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, lời ca, sân chơi 
phù hợp với từng trò chơi. Ví dụ: Với trò chơi Rồng rắn lên mây cô chuẩn bị lời 
ca, sân chơi rộng. Trò chơi kéo co cô cần chuẩn bị dây kéo to, chắc chắn nhưng 
đảm bảo không gây đau cho trẻ khi chơi “Kéo co”, có thể lựa chọn dây vải bện 
hoặc dây thừng to và cứng. Hoặc với trò chơi “ Ném còn” (Dân tộc Thái) thì lại 
cần chuẩn bị cây nêu, quả còn, rổ đựng còn, phấn vẽ vạch mức. Còn với trò chơi 
“Ném Pao” ( Dân tộc Mông) thì chỉ cần những quả Pao xinh xắn và khoảng sân 
chơi bằng phẳng cho trẻ là đủ...
 Địa điểm chơi cũng rất quan trọng, không gian tổ chức thoải mái thì trẻ 
mới có thể chơi một cách thoải mái và hết mình. Tùy thuộc vào từng trò chơi, hình thức, thời gian tổ chức chơi sẽ tôi lựa chon địa điểm chơi sao cho phù hợp. 
Ví dụ: Với những trò chơi động, mang tính tập trung như: Rồng rắn lên mây, 
kéo co, thả đỉa ba basố lượng trẻ chơi trong mỗi lượt chơi nhiều thì lựa chọn 
tốt nhất là sân chơi ngoài trời. Với những trò chơi mang tính chất tĩnh, trẻ chơi 
theo nhóm nhỏ như: Chi chi chành chành, kéo cưa lừa xẻthì có thể cho trẻ 
chơi ngay trong lớp hoặc chơi ngoài sân chơi đều được.Với trò chơi “Dung dăng 
dung dẻ” trẻ có thể chơi mọi lúc, mọi nơi. Khi thời tiết nắng ráo có thể cho trẻ 
chơi ở sân chơi ngoài trời, khi trời mưa rét có thể tổ chức cho trẻ chơi ngay 
trong lớp học. Nhưng yếu tố đầu tiên tôi luôn quan tâm là địa điểm chơi được 
lựa chọn cho trẻ chơi luôn phải đảm bảo an toàn đối với trẻ, đảm bảo về vệ sinh.
 Để tổ chức cho trẻ chơi trò chơi thật tốt tôi trước khi tổ chức trò chơi tôi 
tổ chức cho trẻ làm quen, học thuộc lời ca của trò chơi trong các hoạt động như. 
Giờ đón, trả trẻ, hoạt động ngoài trời Ngoài cách dạy trẻ làm quen với lời ca 
theo hình thức truyền khẩu, để tác động giúp trẻ thêm hứng thu khi đọc lời ca và 
tập trung chú ý, mau thuộc lời ca, tôi còn tổ chức cho trẻ thi đọc nối dưới hình 
thức luân phiên nhóm hoặc cá nhân. 
 Ví dụ: Chia 28 trẻ thành 5 nhóm làm quen với lời ca của trò chơi “ Chi chi 
chành chành”; Cô giới thiệu lời ca cho trẻ làm quen, khi trong lớp chỉ còn một 
vài trẻ chưa thuộc tôi cho trẻ thi đọc nối giữa 5 nhóm, cứ nhóm đầu tiên đọc câu 
trước (Chi chi chành chành) thì nhóm thứ 2 đọc câu tiếp theo (Cái đanh thổi lửa) 
lần lượt cho đến hết lời ca của trò chơi. Hoặc khó hơn: Tôi tổ chức cho trẻ thi 
đọc nối nhưng theo hiệu lệnh mời; Không phải đọc nối lời ca tuần tự từ nhóm 
này đến nhóm khác mà trẻ phải quan sát, khi cô hoặc nhóm bạn đọc 1 câu của 
lời ca, cô đưa tay mời hướng về nhóm nào thì nhóm đó phải đọc câu tiếp theo 
(Cô đọc: Chi chi chành chành, kết hợp đưa tay mời về phía nhóm 1 thì trẻ nhóm 
1 đọc: Cái đanh thổi lửa. Cô lại chuyển hiệu lệnh mời về nhóm 5 thì nhóm lại 
đọc tiếp: Dắt dế đi tìm. Cứ như vậy, nhóm trẻ được mời thì đọc đúng câu ca nối 
tiếp, các nhóm còn lại vừa đọc nhẩm vừa lắng nghe, quan sát để phát hiện lượt 
đọc của nhóm mình để đọc cho đúng câu ca. Khi cho trẻ thi đọc hình thức cá nhân 
cũng vậy. Chỉ thay đổi là số trẻ trực tiếp tham gia là những cá nhân cụ thể. Các bạn còn lại là người lắng nghe và kiểm tra.Việc tổ chức cho trẻ làm quen với lời ca theo 
hình thức như vậy sẽ khiến trẻ thêm hào hứng và khi đã tham gia vào hoạt động thì 
lúc nào trong đầu trẻ cùng tư duy về lời ca, lúc nào miệng trẻ cũng nhẩm và chỉ chờ 
tới lượt nhóm hoặc bản thân mình để được đọc lên lời ca đúng.
 * Giải pháp 3: Thực hành trải nghiệm qua việc tổ chức trò chơi.
 Trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian tôi cũng luôn chú ý 
bao quát trẻ không chỉ để phát hiện, giúp đỡ trẻ khi trẻ cảm thấy khó khăn, 
vướng mắc với cách chơi của trò chơi mà còn phát hiện được những lỗi phát âm 
của trẻ khi đọc lời ca và sửa cho trẻ kịp thời, tăng cường tiếng Việt cho trẻ khi 
trẻ chơi các trò chơi có nhiều âm vực khó.
 VD: Trò chơi: Rồng rắn lên mây, khi tổ chức chơi trong quá trình đọc lời 
ca, trẻ thường ngọng “r” với “nh” như từ “rắn” trẻ đọc thành “nhắn” tôi đã tăng 
cường sửa cho trẻ, nói cho trẻ hiểu là từ “Rắn” chứ không phải “nhắn” tôi đã 
phát âm lại từ “Rắn” nhiều lần và dạy trẻ phát âm cho đúng, và tôi động viên 
khuyến khích những trẻ lớn phát âm đúng dạy những trẻ còn ngọng. 
 Bên cạnh đó tôi cũng luôn tạo điều kiện và khuyến khích trẻ chơi các trò 
chơi, rèn các kĩ năng vận động cho trẻ và gợi ý cho các trẻ lớn vừa chơi vừa 
giúp đỡ các em nhỏ hơn; trong quá trình quan sát thực tế trẻ chơi, tôi nhận thấy: 
Các cháu 4 - 5 tuổi rất thích được dạy cho các em nhỏ hơn cách chơi trò chơi, 
cách đọc lời ca của trò chơi cho đúng và ngược lại các cháu nhỏ cũng rất thích 
các anh chị hướng dẫn thêm cho mình trong khi chơi, trẻ cũng thích được đọc 
lời ca dưới hình thức thi đọc nối luân phiên. 
 VD: Sau khi đã được cô giáo hướng trò chơi “Nu na nu nống” vào các 
buổi chơi trước, trong các giờ chơi tự do của trẻ tôi thấy các cháu 4 - 5 tuổi 
thường vừa chơi vừa để ý lắng nghe các em nhỏ đọc lời ca trong khi chơi và 
nhắc em “Không phải đánh trống cất cờ, phải nói là đánh trống phất cờ” rồi với 
từ “phất” đó các anh chị còn ra sức phát âm lại cho các em nghe và nhắc em nói 
đúng mới thôi, sau đó cả nhóm trẻ cùng tươi vui phấn khởi hẳn ra vì những điều 
chúng vừa làm được, có những tình huống trẻ còn khúc khích cười với nhau như 
không hề có khoảng cách nào Trong quá trình hướng dẫn và tổ chức cho trẻ 

File đính kèm:

  • doctai_lieu_tham_khao_sang_kien_kinh_nghiem_nguyen_thi_hong_han.doc