Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp ở học sinh Tiểu học miền núi

gũi thân thương. Chính vì lẽ đó mà trong sự nghiệp giáo dục nói chung và hình thành nhân cách “Đức – trí – thể – mỹ” cho học sinh Tiểu học nói riêng, công tác chủ nhiệm lớp đóng vai trò hết sức quan trọng.

 Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh xuyên suốt 5 buổi/ tuần, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể, và cả hoạt động học tập ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là rất nặng nề, rất vất

doc 22 trang Bảo Anh 12/07/2023 5100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp ở học sinh Tiểu học miền núi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp ở học sinh Tiểu học miền núi

Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp ở học sinh Tiểu học miền núi
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở HỌC SINH 
TIỂU HỌC MIỀN NÚI”
 PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
Đối với học sinh Tiểu học hình ảnh người thầy giáo cô giáo thật gần gũi thân thương. Chính vì lẽ đó mà trong sự nghiệp giáo dục nói chung và hình thành nhân cách “Đức – trí – thể – mỹ” cho học sinh Tiểu học nói riêng, công tác chủ nhiệm lớp đóng vai trò hết sức quan trọng. 
	Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh xuyên suốt 5 buổi/ tuần, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,và cả hoạt động học tập ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là rất nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp.
Ta giả sử như tất cả bắt đầu xuất phát từ móc số 0 thì ở cùng một trường học, cùng một khối lớp, chất lượng học tập của học sinh cũng tương đương nhau. Nhưng tại sao đến cuối năm, chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp này lại vượt trội hẳn so với các lớp khác; sĩ số của lớp này duy trì 100% nhưng ở những lớp khác lại có tới 2, 3 học sinh bỏ học, thậm chí có em đang ở nhà nhưng vẫn không thể vận động đi học trở lại được. Tất cả những điểm khác biệt đó đều do giáo viên chủ nhiệm lớp tạo ra. Giáo viên chủ nhiệm nào có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh của mình thì chắc chắn sẽ tìm ra được các biện pháp để thu hút học sinh đến lớp, các em sẽ thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, làm cho học sinh trở nên chăm ngoan, thích đi học.
 Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Vì vậy, tôi khẳng định rằng công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là cực kì quan trọng, là nhân tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 
 Mỗi cử chỉ hành động, lời nói của người giáo viên chủ nhiệm lớp phải hết sức chuẩn mực, có sức thuyết phục. Làm thế nào để trở thành người chủ nhiệm giỏi đáp ứng với yêu cầu là điều trăn trở day dứt trong tôi. Đó là lí do vì sao tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm “Công tác chủ nhiệm lớp ở học sinh Tiểu học miền núi”. 
II. Mục đích nghiên cứu và cơ sở lí luận:
	1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, giới thiệu những biện pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp, góp phần làm thế nào công tác chủ nhiệm lớp ở Tiểu học miền núi có hiệu quả. 
Tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao công tác chủ nhiệm lớp.
Thông qua việc nghiên cứu tôi cũng muốn nhận được những lời góp‎ ‎‎ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ Ban Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót để ngày một hoàn thiện hơn.
2. Cơ sở lí luận:
Nghiên cứu cơ sở lí luận về công tác chủ nhiệm lớp. Chủ nhiệm là gì? “Chủ nhiệm là người đứng đầu và chịu trách nhiệm chính trong một số cơ quan nhà nước, mộ số tổ chức”. (Từ điển Tiếng Việt 2001 - Viện ngôn ngữ học - NXB Đà Nẵng) Hay nói nôm na: Giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm về tất cả mọi mặt học lực; hạnh kiểm; đạo đức nhân cách.. của lớp mình phụ trách. Đây cũng là vấn đề hết sức phức tạp và được các nhà giáo dục quan tâm. Việc hình thành nhân cách “Đức – trí – thể – mỹ” cho học sinh Tiểu học nói riêng, công tác chủ nhiệm lớp đóng vai trò hết sức quan trọng. 
Hiện nay với sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm - thầy giáo không còn là người truyền đạt kến thức một chiều, mà là người định hướng tổ chức cho học sinh tự mình khám phá tìm ra kiến thức. Để thực hiện được điều đó thì vai trò của người giáo viên chủ nhiệm càng phải thể hiện rõ hơn. Người giáo viên chủ nhiệm phải “dạy” cho học sinh của mình biết cách “học” sao cho khoa học. Tức là tập cho học sinh biết cách tự thể hiện khả năng của mình, thể hiện được ‘khả năng” hợp tác của mình với bạn bè; thầy cô và gia đình xã hội. Chính vì vậy, trước hết phải xây dựng cho được 3 yếu tố cơ bản đó là “Nền nếp lớp học - lớp học thân thiện, học sinh tích cực - Hướng dẫn học sinh học ở nhà”. Học sinh phải có “nền nếp” ngay từ ban đầu, tiếp sau đó là xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích cực” và tiếp theo là hướng dẫn học sinh biết cách học ở nhà.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
	1. Phạm vi nghiên cứu:
	Để thực hiện đề tài này tôi đã tiến hành nghiên cứu các biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm tại lớp 4A Trường TH & THCS Húc Nghì. 
	2. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu một số biện pháp nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học miền núi.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
	1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
 - Nghiên cứu các văn bản tài liệu có liên quan đến đề tài.
 - Nghiên cứu các tài liệu tham khảo liên quan đến công tác chủ nhiệm trong trường học, mối quan hệ giữa nhà trường - giáo viên - học sinh - phụ huynh - cộng đồng, nội dung, chương trình...
	2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế:
- Trực tiếp giảng dạy, quan sát quá trình học tập sinh hoạt của học sinh.
- Trực tiếp điều tra hoàn cảnh gia đình của học sinh thông qua trò chuyện với học sinh. Trao đổi với phụ huynh thông qua các buổi họp phụ huynh đầu năm.
	3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: 
- Tổng hợp kiến thức, nội dung, đưa ra biện pháp và ý kiến đề xuất của bản thân nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học miền núi.
4. Thực nghiệm Sư phạm.
	- Thực nghiệm nghiên cứu trong quá trình giảng dạy và sinh hoạt trên lớp.
PHẦN NỘI DUNG
 Mục tiêu giáo dục Tiểu học được ghi trong luật giáo dục (1998) là “Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Chương trình giáo dục Tiểu học là sự cụ thể hoá mục tiêu giáo dục Tiểu học.
* Giới thiệu cấu trúc đề tài:
 Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm những nội dung chính được trình bày trong 2 chương: 
 Chương I: Thực trạng và sự cần thiết của việc thực hiện đề tài.
 Chương II: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm ỏ học sinh miền núi.
 • Kết thúc là phần kết luận và bài học kinh nghiệm.
Chương I:
THỰC TRẠNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. Thực trạng ở trường TH & THCS Húc Nghì và tính thuyết phục của đề tài.
 1. Thực trạng.
	1.1. Về phía giáo viên:
 Qua quá trình giảng dạy và dự giờ một số lớp tôi rút ra một số ưu và khuyết điểm sau:
	a. Ưu điểm:
- Giáo viên chuẩn bị khá kỹ bài dạy, thể hiện tốt các bước phân tích khi chuẩn bị trong bài dạy.
- Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt huyết với nghề.
- Giáo viên giảng dạy nhiệt tình, chú ý đến nhiều đối tượng trong lớp, có ý thức và trách nhiệm với nghề nghiệp, đặc biệt bước đầu áp dụng Thông tư 30 trong việc nhận xét học sinh khá tốt.
	b. Nhược điểm:
- Việc nhận xét quan tâm đến các đối tượng học sinh chưa nhiều, hầu hết đội ngũ giáo viên là những người trẻ mới ra trường, thời gian công tác còn ít. Chính vì thế kinh nghiệm tích lũy trong công tác chủ nhiệm chưa nhiều.
- Một số giáo viên chỉ chú ý đến thời gian, ít quan tâm nhận xét động viên học sinh, đặc biệt là các em rụt rè.
	1.2. Về phía học sinh:
Để nắm được tình hình “lí lịch” từng học sinh của mình, tôi đã làm phiếu điều tra. Cụ thể như sau: 
	GIỚI THIỆU BẢN THÂN
1. Họ và Tên:..
2. Là con thứtrong gia đình.
3. Hoàn cảnh gia đình (khá giả, đủ ăn, hộ nghèo).......................................
4. Kết quả học tập năm lớp 3: (Giỏi, Tiên tiến, trung bình)........................
5. Môn học yêu thích:..................................................................................
6. Môn học không thích:.............................................................................
7. Góc học tập ở nhà: (Có, không)..............................................................
8. Những người bạn thân nhất trong lớp:....................................................
 .................................................................................................................... ....................................................................................................................
9. Sở thích:..................................................................................................
10. Địa chỉ gia đình: Thôn................................................. ........................ 
11. Số điện thoại của gia đình:(Nếu có).....................................................
Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh để ghi vào sổ chủ nhiệm. Và quan trọng hơn cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. 
 	1.2.1. Ưu điểm:
 - Đa số học sinh ngoan, hiền.
 - Các em biết nghe lời.
	1.2.2 Nhược điểm:
 - Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh có tính hiếu động, nhanh nhạy nên hay “quên” (thầy giáo dặn dò vừa xong, quên => vi phạm).
- Hầu hết các em là con em dân tộc thiểu số (một số ít học sinh là người Kinh), ngôn ngữ bất đồng, kiến thức về Tiếng Việt còn hạn chế, lời lẽ chưa gãy gọn, diễn đạt chưa được trôi chảy, câu văn còn sai chính tả, chưa hiểu hết ý của thầy cô giáo nói .
- Nhiều phụ huynh chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc cho con em đi học. Họ nghĩ việc học của con là do nhà trường nên khoán trắng cho giáo viên mà không hoặc ít động viên nhắc nhỡ con em đi học.
	- Hầu hết các em có hoàn cành khó khăn nên hay nghỉ học để giúp bố mẹ trên nương rẫy.. 	
	- Khi vào các vụ mùa (đót, mây...) các em thường nghỉ đi làm kiếm tiền.
2. Tính thuyết phục của đề tài.
	- Trong quá trình nghiên cứu tôi sẽ đề xuất một số biện pháp nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm ở Tiểu học miền núi tại lớp 4A, Trường TH & THCS Húc Nghì. Nếu áp dụng một cách đồng bộ thì sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục và đào tạo cũng như kĩ cương nền nếp trong nhà trường.
II. Cơ sở thực tiễn về công tác chủ nhiệm ở Tiểu học:
 1. Khảo sát phương pháp chủ nhiệm của giáo viên: 
	1.1. Khả năng quan sát, nắm đối tượng của giáo viên: 
- Giáo viên nắm khá rõ từng hoàn cảnh của các em.
	1.2. Các biện pháp mà giáo viên áp dụng: 
 	- Khảo sát, ghi chép từng hoàn cảnh của từng học sinh.
 	- Trò chuyện trao đổi trực tiếp với học sinh, phụ huynh.
	- Đến thăm nhà học sinh, trò chuyện chia sẽ với gia đình.
 	 - Kiểm tra nhắc nhờ thường xuyên, chú ý đặc biệt đến các em còn vụng về.
 2. Các nhân tố tham gia vào công tác chủ nhiệm:
 	2.1. Giáo viên:
	- Giáo viên chủ nhiệm là yếu tố chủ đạo trong công tác chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải có tác phong nghiêm túc, gương mẫu. Nói đi đôi với làm. Luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, phải thực hiên đúng những gì đã nói, hứa với học sinh và giải quyết sự việc có tình có lí. GVCN cũng là giáo viên bộ môn nên cần phải có chuyên môn vững vàng. Khi được học sinh tin tưởng thán phục về chuyên môn công tác chủ nhiệm sẽ thuận lợi hơn.
 	2.2. Học sinh: 
	- Trong công tác chủ nhiệm, học sinh là đối tượng chủ thể.
2.3. Nhà trường và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh:
- Ngay từ đầu năm học Nhà trường đã có sự chỉ đạo, triển khai các kế hoạch một cách sát sao kịp thời, giúp giáo viên chủ nhiệm chủ động xây dựng kế hoạch của lớp mình. 
- Đội Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh như là “cái nôi” hình thành nhân cách đối với học sinh Tiểu học. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm và giáo viên Tổng phụ trách Đội luôn có mối quan hệ tương hỗ với nhau. 
2.4. Phụ huynh học sinh:
Việc kết hợp phụ huynh học sinh để cùng nhau giáo dục học sinh cũng không kém phần quan trọng. Phải làm cho phụ huynh thấy việc cho con đến trường là đúng đắn. Mối quan hệ này được thể hiện qua các buổi họp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải tạo được uy tín, vững vằng trong buổi họp đầu năm. 
Chương II:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở
HỌC SINH TIỂU HỌC MIỀN NÚI
I. Phương hướng chung:
Trong lĩnh vực khoa học giáo dục, giáo viên chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Giáo dục vừa cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tri thức khoa học tiến bộ vừa góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bậc Tiểu học đòi hỏi phải sáng tạo, linh hoạt và mềm dẻo trong công tác chủ nhiệm.
II. Những biện pháp cụ thể:
1. Xây dựng nền nếp lớp học: 
a. Nắm thông tin về học sinh.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, khi nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều tra thông qua phiếu. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ thông tin trong phiếu: 
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
 1. Họ và Tên:..
 2. Là con thứtrong gia đình.
 3. Hoàn cảnh gia đình (khá giả, đủ ăn, nghèo)............................................
 4. Kết quả học tập năm lớp 4: (Giỏi, Tiên tiến, trung bình)........................
 5. Môn học yêu thích:..................................................................................
 6. Môn học cảm thấy khó:...........................................................................
 7. Góc học tập ở nhà: (Có, không)..............................................................
 8. Những người bạn thân nhất trong lớp:....................................................
 ....................................................................................................................
 9. Sở thích:..................................................................................................
 10. Địa chỉ gia đình: Số nhà........tổ........ấp................................................. 
 11. Số điện thoại của gia đình:......................................................................
 Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh để ghi vào Sổ Chủ nhiệm. Và quan trọng hơn cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. 
 b. Tổ chức bầu Ban cán sự lớp: 
 Việc bầu chọn và xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp là một công việc rất quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi nhận lớp mới. Những năm học trước, Ban cán sự lớp có thể là do giáo viên chọn lựa và chỉ định học sinh làm. Nhưng lên lớp 4, các em đã lớn, tôi muốn tạo dựng và rèn luyện cho các em thể hiện tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với tập thể, nên tôi tổ chức cho các em ứng cử và đề cử để chọn lựa ban cán sự của lớp. Tiến trình bầu chọn Ban cán sự lớp được diễn ra như sau:
 - Trước hết, tôi phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách nhiệm của người lớp trưởng, các lớp phó.
 - Tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Sau đó chọn 5 học sinh tiêu biểu để cả lớp bầu chọn.
 c. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp:
 Sau khi đã bầu chọn được Ban cán sự của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em như sau: 
 * Nhiệm vụ của lớp trưởng:
 - Theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp.
 - Điểm danh và ghi sĩ số của lớp vào góc trên (bên phải bảng) ngay sau khi có trống vào lớp.
 - Điều khiển các bạn xếp hàng chào cờ đầu tuần, xếp hàng tập thể dục.
 - Giữ trật tự lớp khi giáo viên chấm bài, khi giáo viên có việc phải ra khỏi lớp và khi lớp dự lễ chào cờ đầu tuần.
 - Đề nghị giáo viên tuyên dương, phê bình cá nhân hoặc tập thể.
 * Nhiệm vụ của lớp phó học tập: 
 - Tổ chức lớp kiểm tra bài 15 phút đầu giờ; giúp đỡ các bạn học yếu học bài, làm bài.
 - Điều khiển các bạn trao đổi, thảo luận hoặc trả lời câu hỏi trong tiết học khi giáo viên yêu cầu.
 - Theo dõi việc học tập của lớp và ghi chép vào sổ (để báo cáo trước lớp vào tiết sinh hoạt cuối tuần).
 - Làm mọi việc của lớp trưởng khi lớp trưởng vắng mặt hoặc nghỉ học.
 * Nhiệm vụ của lớp phó lao động:
 - Phân công, theo dõi và kiểm tra các tổ trực nhật và chịu trách nhiệm tắt đèn, quạt khi ra về.
 - Phân công các bạn tưới cây trong lớp, chăm sóc bồn hoa và cây trồng của lớp.
 - Theo dõi, kiểm tra các bạn khi tham gia các buổi lao động do trường, lớp tổ chức.
 - Phối hợp với lớp trưởng, lớp phó học tập giữ trật tự lớp. 
 Nhiệm vụ của mỗi em, tôi ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó phát cho các em. Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học, cụ thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, lớp trưởng và 2 lớp phó phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung. 
 Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, lớp trưởng, lớp phó báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ vào báo cáo của từng em, tôi nắm được khả năng quản lí lớp của từng em. Và cứ cuối mỗi tháng, tôi tổ chức họp Ban cán sự lớp 1 lần để tổng kết các mặt làm được của lớp, động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót và hướng dẫn các em cách khắc phục. 
 2. Xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
Xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là nhiệm vụ xuyên suốt của toàn ngành trong nhiều năm nay. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng sống cho học sinh. 
Muốn phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhà trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên chủ nhiệm phải tích cực “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Có nhiều “lớp học thân thiện, học sinh tích cực” thì mới có “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
 Xây dựng “lớp học thân thiện” là tạo ra môi trường học tập thân thiện, an toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Xây dựng được “lớp học thân thiện” thì sẽ có “học sinh tích cực”. Xây dựng được lớp học thân thiện, học sinh tích cực thì sẽ hạn chế được tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học, sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
 Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” được tôi tiến hành từng bước như sau: 
 a. Trang trí lớp học xanh- sạch- đẹp
 Lớp học thân thiện phải có cây xanh, phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được trang trí đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tôi hướng dẫn và cùng với học sinh thực hiện các công việc sau đây: 
 Trồng cây xanh trong lớp bằng cách: cho dây trầu bà, cây trường sinh vào chai nhựa, đổ nước vào rồi treo trên vách tường. Dây trầu bà và cây trường sinh chỉ sống bằng nước và rất ưa rợp, lại không có lá úa, rụng nên rất sạch. Chỉ cần đổ nước thường xuyên là cây sống, dây trầu bà lá xanh rủ xuống từng dây dài rất đẹp. Ngoài ra còn mua thêm một số hoa nhựa để bàn giáo viên và trang trí. Gắn đồng hồ tường cho học theo dõi nắm giờ giấc.
 Trang trí lớp đẹp, hài hòa đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Phần trang trí lớp, tôi giao trực tiếp cho từng tổ: mỗi tổ phải sưu tầm tranh ảnh liên quan đến các môn học và chọn 5 bài vẽ đẹp nhất để trưng bày. Tranh, ảnh các em sưu tầm được dán vào giấy khổ lớn theo từng môn học (Lịch sử, Địa lí, Khoa học, Mĩ thuật) và được bao bên ngoài bằng giấy bóng trong suốt. Sau đó đóng lên vách tường xung quanh lớp.
 Khi nhận xét hạnh kiểm của học sinh, giáo viên chủ nhiệm phải căn cứ vào 5 nhiệm vụ của học sinh. Nhưng 5 nhiệm vụ đó chỉ có ở Sổ Chủ nhiệm của giáo viên nên không có học sinh nào nhớ được đầy đủ 5 nhiệm vụ. Mà không biết nhiệm vụ cụ thể của mình là gì thì làm sao các em làm đúng? Do đó, tôi phải viết 5 nhiệm vụ của học sinh lên giấy A0, trang trí, đóng khung thật đẹp treo lên tường để hàng ngày các em nhớ và làm theo. Ngoài ra, tôi cùng với học sinh xây dựng nội quy lớp học:
 1. Không có học sinh chán học, bỏ học và nghỉ học không có lí do.
 2. Lớp học phải được trang trí đẹp, phù hợp, có tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao.
 3. Phải sử dụng có hiệu quả và bảo quản tốt các thiết bị, đồ dùng dạy học; sử dụng tiết kiệm điện, nước.
 4. Lớp học phải sạch sẽ trong suốt buổi học, bàn ghế phải ngay ngắn, không có học sinh xả rác bừa bãi. 
 5. không nói tục, chửi thề; phải luôn hòa nhã với bạn bè và giúp đỡ nhau trong học tập.
 6. Lớp học phải an toàn, không có nguy hiểm, không có tai nạn xảy ra.
 7. Gọi bạn cùng đi học.
 Hằng ngày, tôi nhắc nhở các em thực hiện theo 5 nhiệm vụ của người học sinh và nội quy của lớp. Khi có học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ, tôi yêu cầu em đó đọc lại 5 nhiệm vụ của người học sinh và nêu rõ nhiệm vụ nào mình chưa làm được để sửa chữa, khắc phục. Nhờ vậy, các em mới tự giác thực hiện, số lượng học sinh vi phạm nội qui của nhà trường, của lớp ngày càng giảm dần.
 b. Xây dựng mối quan hệ thầy- trò và bạn bè trong lớp
 * Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
 Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn - ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công- hợp tác. Thầy thiết kế- trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc- trò làm theo mẫu của thầy. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành nghiêm túc. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc- học trò làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện.
 - Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào thì đạo đức, y thức sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn.
 - Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học sinh. 
 - Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan nát tâm hồn trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động.
 Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan.
 Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra ngững ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
 Khi nói chuyện, khi giảng cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
 * Xây dựng mối quan hệ bạn bè:
 Trong cuộc sống của mỗi con người, ai cũng cần có bạn bè để chia sẽ. Học sinh chúng ta cũng vậy. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ. Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện nhiều nhóm học trò, đặc biệt là những lớp cuối cấp. Các em chia bè phái, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Còn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này.
 Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
 Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn khác
 Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại.
 Đầu năm học, tôi thỏa thuận với cả lớp rằng nếu trong lớp mình có bạn nào đau ốm phải nằm viện thì cả lớp sẽ tổ chức đến thăm bạn, động viên bạn an tâm chữa bệnh; những em ở gần nhà sẽ thay nhau chép bài cho bạn. Khi bạn khỏi bệnh, những học sinh giỏi sẽ giúp đỡ bạn học tập để theo kịp chương trình. 
 3. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà
Một học sinh muốn có kết quả học tập tốt ngoài việc tiếp thu những kiến thức ở trên lớp thôi chưa đủ mà việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới tại nhà cũng vô cùng quan trọng. Trong khi đó, tôi thấy điều kiện gia đình, không gian sống của học sinh cũng như nhận thức của cả phụ huynh lẫn học sinh chỉ dừng lại ở nhận thức học tại lớp là đủ. Và điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em. 
Muốn học sinh tự học ở nhà có kết quả thì các em phải có góc học tập và mỗi em phải có phương pháp tự học ở nhà. Về phương pháp học tập, tôi có thể hướng dẫn cho từng em. Nhưng còn góc học tập thì phụ huynh phải làm cho con em của mình. 
 Để biết được số học sinh có góc học tập hay không, tôi tiến hành điều tra qua học sinh, qua phụ huynh, qua bạn bè gần nhà của học sinh và đến từng nhà học sinh để tìm hiểu. Qua tìm hiểu, tôi biết được lớp tôi có 20 em nhưng góc học tập chỉ có 5 em còn lại không có góc học tập.
 Đối với những em có góc học tập nhưng chỗ đặt chưa phù hợp, tôi trao đổi với phụ huynh sắp xếp lại vị trí sao cho thoáng mát về ban ngày, đầy đủ ánh sáng về ban đêm. 
 Đối với những em chưa có góc học tập, tôi giải thích, động viên để gia đình hiểu rằng góc học tập là nơi để các em học bài, nghiên cứu bài và làm bài tập ở nhà. Có góc học tập sẽ giúp các em hứng thú và có y thức cao hơn trong việc học ở nhà. Ngoài ra, góc học tập còn là nơi để các em rèn luyện tính cẩn thận, ngăn nắp và phát triển óc thẩm mĩ của bản thân. Phụ huynh chỉ cần đóng một tấm ván làm bàn để sách vở và ngồi học là được.
 Sau một khoảng thời gian nhất định, tôi lên kế hoạch kiểm tra cụ thể để nắm chính xác tình hình. Lúc đầu, có phụ huynh còn e ngại, thậm chí còn bảo tôi bày vẽ. Nhưng thấy tôi quan tâm và hết lòng vì học sinh nên dần dần phụ huynh cũng hiểu ra và nhiệt tình hưởng ứng. Hoàn cảnh của một số gia đình học sinh còn rất nghèo nhưng phụ huynh cũng đã cố gắng tạo cho con em mình một góc học tập ở nhà.
 Khi các em đã có góc học tập, tôi yêu cầu mỗi em phải lập thời gian biểu buổi sáng thật cụ thể. Thông qua thời gian biểu, tôi biết được chính xác thời gian học bài ở nhà của từng em. Sau đây là mẫu thời gian biểu tôi làm mẫu để hướng dẫn học sinh: 
 THỜI GIAN BIỂU
Thời gian
Công việc
6 giờ 
Thức dậy.
7 giờ 30 – 9 giờ
Học bài: học bài cũ và xem trước bài mới.
9 giờ - 10 giờ 
Làm việc nhà giúp đỡ cha mẹ.
10 giờ - 11 giờ
Nghỉ trưa.
12 giờ - 12 giờ 30
Vệ sinh có nhân, đi học.
 Căn cứ và thời gian học bài ở nhà của từng em, tôi đi kiểm tra, hướng dẫn các em tự học ở nhà. Việc kiểm tra các em học bài ở nhà được tôi thực hiện đều đặn và duy trì thường xuyên. Lúc đầu, tôi trực tiếp kiểm tra và hướng dẫn tỉ mỉ phương pháp học tập cho những em học còn chậm. Khi việc học bài ở nhà của học sinh đã đi vào nề nếp, tôi phân chia lớp thành các nhóm theo khu vực dân cư (theo tổ) và phân công mỗi nhóm một nhóm trưởng. Em nhóm trưởng sẽ kiểm tra và báo cáo với tôi tình hình tự học ở nhà của các thành viên trong nhóm. Thỉnh thoảng, tôi vẫn đến kiểm tra đột xuất một số em để nắm tình hình. Thấy tôi quan tâm đến việc học ở nhà của con em mình nên phụ huynh cũng nhiệt tình phối hợp với tôi: nhắc nhở, kiểm tra và tạo điều kiện cho con em mình học tập ở nhà. Sự tiến bộ của học sinh “cá biệt” được tôi thường xuyên thông báo cho gia đình biết qua điện thoại. Vì vậy, phụ huynh rất vui và càng quan tâm đến việc học của các em.
III. Kết quả:
 Sau thời gian thực hiện (Chủ yếu là 2-3 tháng đầu) kết quả đạt được rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tôi rất vui mừng và vơi đi những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_cong_tac_chu_nhiem_lop_o_hoc_sinh_tieu.doc