Các bài văn đoạt giải nhất quốc gia và điểm 10 đại học

ĐỀ:Bàn về thơ, nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã viết:

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”

Anh (chị ) hãy bình luận ý kiến trên.

Bài làm

Những vần thơ Anđécxen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có

những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo

vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ

trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều,

từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người

cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa trọn

vẹn, hoàn chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn

cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổ thức,

xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki

vào thế kỉ mười chín”:

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”

Từ thủa thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những

đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ

tổng kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn

trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta không

định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông lung, xa vời

vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là một khái niệm hết sức gần gũi: “Thơ

trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc đời” như một vì sao được

chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên một ánh sáng lung linh, rạng rỡ.

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.

pdf 61 trang phuongnguyen 26/07/2022 24201
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Các bài văn đoạt giải nhất quốc gia và điểm 10 đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các bài văn đoạt giải nhất quốc gia và điểm 10 đại học

Các bài văn đoạt giải nhất quốc gia và điểm 10 đại học
CÁC BÀI VĂN ĐOẠT GIẢI NHẤT QUỐC GIA VÀ 
ĐIỂM 10 ĐẠI HỌC 
ĐỀ:Bàn về thơ, nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã viết: 
 “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” 
 Anh (chị ) hãy bình luận ý kiến trên. 
Bài làm 
 Những vần thơ Anđécxen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có 
những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo 
vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ 
trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, 
từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người 
cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa trọn 
vẹn, hoàn chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn 
cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổ thức, 
xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki 
vào thế kỉ mười chín”: 
 “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” 
 Từ thủa thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những 
đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ 
tổng kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn 
trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta không 
định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông lung, xa vời 
vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là một khái niệm hết sức gần gũi: “Thơ 
trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc đời” như một vì sao được 
chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên một ánh sáng lung linh, rạng rỡ. 
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. 
 Cuộc sống bao giừ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm 
hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không 
bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc 
sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uộc, không mang trên mình những cành cây săn 
chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút 
của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu neo chặt trong bến 
tâm hồn người thưởng thức. anh sĩ Lê Quí Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn 
quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ 
được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này 
sang thế hệ khác để nuôi dưỡng thi ca. đến với Chế Lan Viên, một “triết gia thi sĩ”, ta 
không quên giây phút con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của sự chán chường: 
 “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh 
 Một vì sao trơ trọi giữa trời xa 
 Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh 
 Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo” 
 Thế mà cuộc sống mới chan hoà hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan mọi 
băng giá trong trái tim thi sĩ. Người sà vào lòng nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn 
cảm hứng thi ca từ cuộc đời: 
 “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ 
 Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa 
 Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa 
 Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa” 
 (Tiếng hát con tàu). 
 Cuộc sống mên mông và kì diệu làm sao ! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho 
thơ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc 
sống, bóng hình con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm tình, ước mơ, khát 
vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Cuộc đời ban 
truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống hiến cho 
con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. đến với thơ, người đọc 
trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau đó sẽ gặp chính tâm tư của 
mình bởi thơ là “tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Cùng với văn chương, thơ ca trở 
nên những nhịp cầu vô hình dẫn dắt những tâm hồn đến với tâm hồn., những trái tim đến 
với trái tim để con người cùng sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hi vọng. 
 Cuộc đời vốn bao la, vô tận kia như một bức tranh với ba chiều không gian trải dài 
đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc 
đời ấy: 
 “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật 
 Một mật ngọt thành, đời vạn chuyến ong bay 
 (Chế Lan Viên) 
 Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn 
bóng hình của cuộc đời rộng lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời để hút lấy chất mật 
tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị. Nhà thơ phải 
biết chắt lọc chất liệu mà cuộc đời cung cấp, từ đó mới tạo nên những vần thơ hay, làm 
rung động lòng người đọc. Thi ca gắn liền với cảm xúc. Nhà thơ không thể hiện cuộc đời 
qua những tình huống, qua những sự kiện như các nhà văn. Nhà thơ giãi bày bằng cảm 
xúc, bằng ngôn ngữ thi ca, bằng cả “khoảng trắng giữa các ngôn từ”. Thơ ca có giá trị 
không tách rời sự thoát li, tách rời khỏi cuộc sống, cũng như sự photocopi cuộc sống một 
cách cứng nhắc, khuôn mẫu. Đọc thơ mà chẳng tìm thấy nỗi lòng nhà thơ, đấy chẳng phải 
là thơ ca đích thực ! Nếu không có một thiên tài như Nguyễn Du uyên bác, ta không thể 
có “Truyện Kiều”. Nhưng nếu không có những lầm than cơ cực, đắng cay, tủi nhục cùng 
với những ước mơ cháy bỏng của nhân dân trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong 
đầy ngột ngạt, ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ đầy chất nhân 
bản sâu xa. 
 Nếu không có một vùng quê Kinh Bắc êm ả, bình dị với những con người chăm 
chỉ, hiền hoà, mãi mãi ta không thể nào có được nỗi nhớ rạo rực thiết tha của thi sĩ Hoàng 
Cầm trong bài “Bên kia sông Đuống: 
 “Em ơi buồn làm chi 
 Anh đưa em về bên kia sông Đuống 
 Ngày xưa cát trắng phẳng lì 
 Xanh xanh bãi mía bờ dâu 
 Ngô khoai biêng biếc 
 Đứng bên này sông sao nuối tiếc 
 Sao xót xa nhưn rụng bàn tay” 
 Thơ bao giờ cũng in đậm chữ “đời” trước hết. Cuộc đời không chỉ ban cho nhà thơ 
nguồn cảm hứng mà cuộc đời còn là nơi khai thác “chất quặng” nguồn từ để tạo nên thơ: 
 “Vạt áo của nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà cuộc đời rơi vãi 
 Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang” 
 (Chế Lan Viên) 
 Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái 
tôi” nhỏ bé của người nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng “vỏ 
bào”(Pauxtôpxki). Nhà thơ phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô 
tận để làm nên những “bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn 
người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ, theo cách diễn đạt của Pauxtôpxki. 
 Trở lại câu nói của nhà phê bình Bêlinxki, ta thấy đó không phải là cái nhìn phiến 
diện. “Thơ trước hết là cuộc đời” nhưng cuộc đời chưa phải là tất cả. Bêlinxki rời phím 
nhấn “cuộc đời” ấn tay vào phím cạnh bên “nghệ thuật”. Như vậy, Bêlinxki đã không phủ 
nhận vai trò quan trọng của yếu tố làm nên thi ca này. Thiếu nghệ thuật, thơ chỉ còn là 
hòn ngọc thô không mài không giũa, không thể khơi dậy trong trái tim con người những 
rung động sâu xa. Thơ có thể ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều là hình hài sắc 
vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu trời cao rộng, nâng cảm 
xúc đến mức thăng hoa. Ta yêu “Truyện Kiều” đâu chỉ vì “đoạn trường tân thanh” xé ruột 
cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc truân chuyên của cánh hoa Thuý Kiều tài sắc. 
Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì 
âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong lục bát thân thương: 
 Long lanh đáy nước in trời 
 Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng 
 Cảnh mùa thu long lanh, mĩ lệ đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng 
người dân đất Việt đến nhiều thế kỉ mai sau. 
 Thơ cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm 
cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một 
nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề lặn sâu vào đại dương cuộc sống, 
không phải để nhặt nhạnh mảnh san hô tầm thường mà để tìm những viên ngọc trai lấp 
lánh, những “khối tình con” kết từ máu huyết của loài trai nhẫn nại, cần cù (một ý của 
Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”). Nhà thơ chỉ cần rung động trước 
lớp sóng của cuộc đời thôi ư ? Chưa đủ, như thế anh chỉ có cái tâm mà chưa có cái tài để 
xứng đáng mang danh hiệu “thi sĩ”. 
 Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định 
luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải 
vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi 
khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía 
giá trị cao quí của lao động thi ca: 
 “Phí tổn ngàn cân quặng chữ 
 Để thu về một chữ mà thôi 
 Những chữ ấy làm cho rung động 
 Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài” 
 Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở 
nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có 
những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới 
có thơ ca chân chính. 
 Viết về mùa thu, thi sĩ từ cổ chí kim đã dùng bao hình ảnh tuyệt đẹp, từ “Ngô đồng 
nhất diệp lạc” đến “cúc vàng lưng giậu”, từ “non phơi bóng vàng đến” “trăng sáng như 
gương” Thế mà cậu bé Trần Đăng Khoa lại cảm nhận mùa thu theo một cách riêng qua 
hình ảnh hoa cau giản dị: 
 “Nửa đêm nghe ếch học bài 
 Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây 
 Nghe trời trở gió heo may 
 Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” 
 (Hoa cau) 
 Những cánh hoa cau trắng muốt mỏng manh rụng đầy vại nước làng quê phải 
chăng là “hoa cau cuộc đời” hoá thành “hoa cau nghệ thuật” trong thế giới thơ phong phú 
đầy tưởng tượng bay bổng của nhà thơ tí hon dễ yêu, dễ mến ? Hoa cau thoang thoảng 
thơm mãi con đường thi ca trải rộng, quấn quýt êm đềm trong trái tim những người yêu 
thơ 
 “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Ý kiến của Bêlinxki thật 
xúc động và đầy giá trị ! đến với thơ nghĩa là ta đến với cuộc đời qua lăng kính nghệ 
thuật của nhà thơ. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp những đợt sóng cuộn trào và 
muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng 
khuâng, bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ 
không phải là thứ tôn giáo cao siêu huyền bí, cũng không phải là những ghi chép tủn 
mủn, vặt vãnh vô giá trị về cuộc đời, về con người quanh ta. Thí sĩ không thể làm nên thơ 
nếu cửa lòng đóng khép, nếu không “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” 
(Nam Cao). Cuộc sống cuộn xoay không một giây dừng lại, thơ ca cũng không ngừng 
nảy nở sinh sôi, cống hiến cho đời những đoá hoa đẹp nhất. 
 Thi sĩ ơi, anh hãy sáng tác bằng cả nhiệt huyết và tình yêu cháy bỏng của trái tim 
mình. 
 Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng 
 Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi ! 
 (Chế Lan Viên) 
 Bắt nguồn từ cuộc sống, qua lăng kính cảm nhận của thi nhân, thơ ca lại trở về với 
đời, tạo dòng chảy trong trái tim người thưởng thức. Thư ca mang đến cho con người 
những gì ? Thơ ca phải chăng chỉ để giết thời gian hoặc làm cho người ta bị mê hoặc? 
Thơ ca chân chính không phải là một loại hình nghệ thuật mang tính chất giải trí đơn 
thuần. Song hành cùng người bạn cốt văn chương, thơ ca mở ra những ngả đường hướng 
triệu triệu con người tới cõi chân- thiện – mĩ. Thơ ca đích thực phải là thơ ca khơi dậy 
những rung động sâu sắc trong tâm hồn con người, làm phong phú thế giới cảm xúc của 
con người, khiến con người vươn tới ước mơ sống tốt hơn, đẹp hơn. Nhà thơ Thanh Hải 
đến phút cuối đời trên giường bệnh vẫn khát khao cống hiến cho đời những giọt xuân 
trong trẻo: 
 Ta làm con chim hót 
 Ta làm một cành hoa 
 Ta nhập vào hoà ca 
 Một nốt trầm xao xuyến. 
 (Mùa xuân nho nhỏ) 
 Làm sao lòng ta không rạo rực trước sức sống mãnh liệt, dạt dào của một nhà thơ 
yêu đời, yêu người tha thiết đến nhường ấy! Nhà thơ đã vượt qua chính mình để làm một 
nốt trầm lặng lẽ. Mình có ích giữa muôn vàn âm thanh sôi động của cuộc đời muôn màu, 
muôn vẻ này chưa ? 
 Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, “thanh lọc” 
tâm hồn con người, chắp cánh cho con người bay tới những ước mơ, khát vọng. Trên cõi 
hành trình dài đằng đẵng đầy chông gai của đời người, có những lúc dừng chân ngơi nghỉ 
, ta không thể không nghĩ về cuộc đời, về những điều tốt đẹp. Bao giờ ta còn đồng cảm 
với tấm lòng thi nhân, khi ấy thơ ca vẫn còn tồn tại sức sống bất diệt, vĩnh cửu. 
 Anđecxen không chỉ là bậc thần tiên tạo nên những trang cổ tích làm say mê biết 
bao thế hệ con người mà còn là nhà thơ chân chính mà “thơ của ông làm no nê trái tim 
người dân chẳng khác gì triệu triệu những hạt bụi nước li ti làm bão hoà không khí trên 
đất đai Đan Mạch. Người nói vì thế mà không ở đâu có cầu vồng rộng lớn và rạo rực như 
ở nơi này” (Pauxtôpxki). 
 Thơ ca thật kì diệu và đáng quí! Đã là thi sĩ, một khi cầm bút, anh không được 
phép phân biệt giữa mình và người, mà phải “viết hết mình cho người” (Tố Hữu). Có như 
thế thơ ca của anh mới sống mãi mãi với cõi đời này. 
 Thơ là cuộc đời cho nên thơ không chỉ khơi dậy những cảm xúc êm đềm, dịu dàng, 
êm ái; không chỉ làm lòng ta quặn đau trước những nỗi “đoạn trường”. Thơ ca đồng thời 
phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” (Eptusencô), phải khiến con người 
biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con 
người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. đấy là giây 
phút Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào những vần thơ mà xích xiềng không 
khoá nổi: 
 Ví đâu có cảnh đông tàn 
 Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân 
 Nghĩ mình trong bước gian truân 
 Tai ươn rèn luyện tinh thần thêm hăng. 
 Ngược dòng thời gian, ta còn thấy đó là giây phút Lí Thường Kiệt cất tiếng sang 
sảng đọc tuyên ngôn Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền độc lập của non sông. Giá 
trị của thơ ca mới cao cả đến nhường nào! 
 Trở về với hiện tại thơ ca hôm nay, ta bắt gặp những dáng hình thi sĩ trên những 
ngả đường thơ trải rộng, đang từng bước khám phá, tìm tòi và sáng tạo, đem lại nguồn 
mới cho thi ca. Phải chăng họ đang đặt chân lên hành trình đến với “Mảnh đất nở hoa 
dâng tặng người muốn hái” ? 
 Thi sĩ ơi, dù phải theo ngả nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: “Thơ trước hết là 
cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. 
 Ý kiến về thơ của nhà phê bình văn học Nga V.Biêlinxki quả thật đáng để chúng ta 
suy nghĩ và nghiền ngẫm. Thơ đâu phải là quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt. 
Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của 
người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những 
mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân 
trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho 
cuộc đời và con người. 
 Ngày xưa, tôi yêu văn thơ Anđecxen bởi nơi ấy bao giờ cũng rung rinh đoá hồng 
bạch toả hương ngào ngạt bên những nàng công chúa xinh tươi. Nay tôi lại càng say mê 
những dòng văn đầy nhân ái kia bởi tôi còn cảm nhận được hương vị của cuộc đời, “chất 
người” ủ kín bên trong. 
 Đinh Thị Mĩ Huỳnh 
 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – TP Hồ Chí Minh 
 Bài đạt giải nhất 
Đề bài: 
Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình 
thức và một khám phá về nội dung". 
Anh, chị hãy bình luận ý kiến trên. 
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1998, bảng A) 
Bài Làm (1) 
"Ai bảo dính vào duyên bút mực 
Suốt đời mang lấy số long đong." 
Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chị nỗi đau 
vì sự bạc bẽo của văn chương. Tai sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở 
người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yeu cầu: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về 
hình thức và một khám phá về nội dung". 
Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, NGuyễn Tuân, Măcxin Gorki..., nhà văn Nga 
Lêônit Lêônôp muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi 
tác phẩm phải kà một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái độc 
đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ơ sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật 
cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực 
cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi 
cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác 
những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức 
riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật. 
Cuộc sống bày ra trước măt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những 
người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản 
chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm 
phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tac phải đem đên cho họ một cái nhìn 
mới, mang đậm dấu ấn chủ quan. 
Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biêt và hứng thú của nhà văn thì có 
hạn. Do đó ngoài việc tìm đến những mảnh đât mới của hiện thực để gieo mần tư tưởng, 
người nghệ sĩ phải biết phát huy vố ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ 
trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa 
những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một 
con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc. LepTônxtôi đã từng nói với 
những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới 
khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: 
"Thơ là đã mởi ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị 
đóng kín". 
Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó 
trước hết mỗi tác phẩm là một "khám phá về nội dung". Muốn vậy, nhà văn không chỉ là 
"người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho", mà phải biết "đào sâu, biết tìm 
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Nhà 
văn phải biết nhì sâu vào cuộc sống, hiểu về tâm hồn của con người để khám phá ra 
những vấn đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung 
và nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, 
hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức 
mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung. Có 
khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng điệu riêng, 
âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới 
đáng quý. 
Cái độc đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách 
riêng của người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, 
một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không 
chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ 
đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ các mới của nội 
dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động 
mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của 
mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân 
chủ nghĩa. 
Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chẳy văn học một cách cảm nhận mới, một 
niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điếu này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển 
sự phong phú của nền văn học. Mỗi gia đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, 
một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học 
nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác. 
Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại 
một khí chất, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê lấy cảm 
hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế 
kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi 
vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của 
những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này là một tiếng yêu thương 
mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cảm hứng nổi lên trong văn 
học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu 
của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái "tôi" cá 
nhân của mình... Mỗi thờ đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những 
âm hưởng khác nhau. Thú vị thật, độc đáo nhất với người đọc lá sự lắng nghe những 
giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng 
người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được điều gì mơi lạ hay 
không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện 
mạo riêng. 
Cũng viết về kỹ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi 
người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc "Tì Bà Hàng", thi sĩ họ 
Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể 
hiện nối đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát của người kỹ nữ 
cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi 
xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thía mà nhẹ nhàng, 
nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật: 
"Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách 
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu" 
Không hiểu sao hai chữ "canh khuya" với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi 
đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn chứa sẵn trong đó cảm giác bất 
trắc, muôn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời , khiến không gian như 
lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thấm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở 
đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối 
tình tri âm và tri kỷ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn 
nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang tấm lòng đầy yêu thương đến với cái 
đẹp. Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ nơi đấu Long 
Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng 
gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu 
chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diết của nhà thơ. 
Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện những nét tâm tình của con người 
trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến 
thơ mới, cái "tôi" cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt. Ở một hồn 
thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kỹ nữ không đau xót một cách ngậm 
ngủi nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh. 
"Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo 
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da" 
Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấu 
vào tâm can. Trăng không "trong vắt" một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng 
trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn. 
Nếu như Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ 
biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, 
thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng . Từ trong hiện tại còn 
bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ 
khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay: 
"Ngày mai bao lớp đời dơ 
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay" 
Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót 
thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch 
Cư Dị, Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do, 
thoát khỏi sự gò bó về niêm luật. 
Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ 
bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ 
cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh 
lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đoi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn 
của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm 
một khác. Ta hãy cùng thưởng thức thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi: 
"Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi 
Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu." 
Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hoà cùng 
màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con "thuyền gối bãi" thật nhàn nhã, 
lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có chút xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, 
thơ mộng được mở ra. Nói là cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bến nước 
hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình 
ảnh con người - chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng một cái tôi cá thể một 
là nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi 
lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không. Thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm 
say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời 
gian. Ức Trai giao hòa với cảnh vật nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả nhưng 
ngưng đọng lại. 
Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy: 
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao 
Câu trúc lơ phơ gió hắt hiu." 
Từ xanh gắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. 
Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động nhưng thật 
khé khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cầu trúc vừa gợi sự lay động 
nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hui. 
Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở lên khác hẳn: 
"Những luồng run rẩy rung ring lá 
... Đã nghe rét mướt luồn trong gió" 
Làn gió của Xuân Diệu không hắt hui thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như 
một sinh thể ẩn trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá 
cây cũng run lên vì lạnh. 
Từ vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng 
khắc biệt biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiều hoà như người bạn muôn đời 
của thi nhân: 
"Nước biết trông như tầng khói phủ 
Song thưa để mặc bóng trăng vào" 
Vầng trăng cứ thế giãi lên thềm, cứ lọt qua song cửa, nơi giao lưu của tinh thần. 
Trăng với người đồng cảm, đồng điệu, nhưng tình cảm ấy cũng có cái gì đó lẵng lẽ. Vầng 
trăng vẫn còn mang vẻ tự nhiên của tạo vật không lời. 
Đến Xuân Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm tư, trăng cũng thấm thía nỗi cô đơn: 
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên của Xuân Diệu 
mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt. Đọc 
"Vội vàng" ta cũng thấy đây là "một phát minh về hình thức và một khám phá về nội 
dung". Không hiểu sao đến với bài thơ này nói riêng, thơ Xuân Diệu nói chung tôi cứ 
nghĩ đến tiếng hát của chàng Danjyar trong truyện Giamilya của Aimatôp. Chàng trai ấy 
đã cất tiếng hát từ tình yêu mê đắm của mình không chỉ mê đắm một con người cụ thể mà 
là tình yêu đối với cuộc sống, cả đất trời này. Thực sự "Xuân Diệu là một nhà thơ mới 
nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến 
niềm say đắm cuộc sống. Trái tim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho mình bộ 
"y phục tối tân", trút cái "áo cổ điển" gò bó tìm đến thể thơ tự do với những câu dài ngắt 
khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng có sự hăm hở, say đắm. Thi sĩ cuống quýt, hối 
hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ 
cổ. 
Mỗi nghệ sĩ khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. 
Cũng viết về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, ... Chính những 
khám phá mới ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Để tạo ra cái mới, 
người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phát huy cái riêng của mình. 
Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không thể xem sáng tác như một thứ nghề chơi mà cần 
có sự khổ luyện, có sự đào sâu tìm tòi. 
Một nhà văn nước ngoài có nói đại ý: Trong văn chương có những niềm hạnh phúc 
trong nỗi đau tột cùng mà chỉ người nghệ sĩ mới hiểu được. Sáng tạo ra cái mới chính là 
kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến thắng quy 
luật băng hoại của thời gian. 
Lê Thị Hồng Hạnh 
Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú Thọ 
Bài đạt giải Nhất 
Bài văn đạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A 
Đề bài: 
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là 
tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm 
thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu 
sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật". (Theo Nguyễn Khải, Các 
nhà văn nói về văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985, trang 61) 
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến nêu trên? Hãy liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu 
hoặc Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề. 
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A) 
Bài Làm 
Điều gì tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của nhà văn hay 
tình cảm nghệ sĩ? Câu hỏi đó đã l

File đính kèm:

  • pdfcac_bai_van_doat_giai_nhat_quoc_gia_va_diem_10_dai_hoc.pdf