Chủ đề tự chọn Ngữ văn 9 - Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học

A: CHUẨN BỊ :

I . Mục tiêu cần đạt : Giúp học sinh:

- Nắm được vẻ đẹp về ngôn từ nghệ thuật trong câu thơ Truyện Kiều của

Nguyễn Du . - Biết nhận diện và phân tích một số từ ngữ hay, từ ngữ đắt

qua các đoạn trích Truyện Kiều đã học trong chương trình Ngữ văn 9 -Tập 1.

- Biết yêu tiếng nói dân tộc và có ý thức học hỏi cách sử dụng từ ngữ ,

cách tạo từ mới trong Truyện Kiều để làm giàu thêm vốn từ Tiếng Việt .

II . Ý nghĩa của chủ đề :

Trong lịch sử văn chương của dân tộc, người ta dành cho Truyện Kiều

của Nguyễn Du một sự tôn vinh đặc biệt . Tác phẩm là Tập đại thành của

một nghìn năm văn học thời phong kiến ; là một tác phẩm đạt đến đỉnh điểm

của sự hoàn thiện . Cùng với nội dung phong phú và sâu sắc , về mặt nghệ

thuật , Truyện Kiều là một kiệt tác với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài

hầu như trên tất cả các phương diện của nghệ thuật truyện thơ Nôm như thể

loại, bố cục, kết cấu , hình tượng nhân vật , nghệ thuật thể hiện nội tâm ,

miêu tả ngoại hình , ngôn ngữ , văn phong , bút pháp tả cảnh ngụ tình v.v

Ở phương diện nào Nguyễn Du cũng đều có những đóng góp to lớn có ý

nghĩa thời đại . Riêng về phương diện ngôn từ .Ông từng được mệnh danh là

nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ , là nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học

Trung đại Việt Nam .

 

pdf 13 trang phuongnguyen 28/07/2022 21740
Bạn đang xem tài liệu "Chủ đề tự chọn Ngữ văn 9 - Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chủ đề tự chọn Ngữ văn 9 - Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học

Chủ đề tự chọn Ngữ văn 9 - Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học
VẺ ĐẸP NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN 
DU 
QUA MỘT SỐ ĐOẠN TRÍCH ĐÃ HỌC. 
CHỦ ĐỀ TỰ CHỌN NGỮ VĂN 9; THỜI LƯỢNG : 6 TIẾT 
A: CHUẨN BỊ : 
 I . Mục tiêu cần đạt : Giúp học sinh: 
 - Nắm được vẻ đẹp về ngôn từ nghệ thuật trong câu thơ Truyện Kiều của 
Nguyễn Du . - Biết nhận diện và phân tích một số từ ngữ hay, từ ngữ đắt 
qua các đoạn trích Truyện Kiều đã học trong chương trình Ngữ văn 9 -Tập 1 
. 
 - Biết yêu tiếng nói dân tộc và có ý thức học hỏi cách sử dụng từ ngữ , 
cách tạo từ mới trong Truyện Kiều để làm giàu thêm vốn từ Tiếng Việt . 
 II . Ý nghĩa của chủ đề : 
 Trong lịch sử văn chương của dân tộc, người ta dành cho Truyện Kiều 
của Nguyễn Du một sự tôn vinh đặc biệt . Tác phẩm là Tập đại thành của 
một nghìn năm văn học thời phong kiến ; là một tác phẩm đạt đến đỉnh điểm 
của sự hoàn thiện . Cùng với nội dung phong phú và sâu sắc , về mặt nghệ 
thuật , Truyện Kiều là một kiệt tác với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài 
hầu như trên tất cả các phương diện của nghệ thuật truyện thơ Nôm như thể 
loại, bố cục, kết cấu , hình tượng nhân vật , nghệ thuật thể hiện nội tâm , 
miêu tả ngoại hình , ngôn ngữ , văn phong , bút pháp tả cảnh ngụ tình v.v 
Ở phương diện nào Nguyễn Du cũng đều có những đóng góp to lớn có ý 
nghĩa thời đại . Riêng về phương diện ngôn từ .Ông từng được mệnh danh là 
nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ , là nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học 
Trung đại Việt Nam . 
 III . Những tài liệu cần đọc và chuẩn bị cho bài giảng : 
(1) Các đoạn trích Truyện Kiều trong chương trình ngữ văn 9 - SGK và 
SGV - Tập I (2)Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du . 
(3)Tham khảo thêm : 
 - Trịnh Bá Đỉnh (2000), Bình giải Truyện Kiều , NXB văn học- Hà Nội 
. 
 - Trần Đinh Sử ( 2002), Thi pháp Truyện Kiều , NXB Giáo dục . 
 - Đào Thái Tôn (2000) , Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo 
luận - Ban quản lý di tích Nguyễn Du - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông 
Tây.. 
 IV. Phân chia thời lượng : 
- Hai tiết đầu : + Giới thiệu mục đích, ý nghĩa của chủ đề . 
 + Tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ đặc sắc trong Truyện Kiều 
qua các 
 đoạn trích đã học. 
 + Phần luyện tập . 
- Ba tiết tiếp theo:+ Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều và các 
 đoạn trích đã học 
 + Tìm hiểu về ngôn từ vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều . 
 + Tìm hiểu về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều . 
 + Vấn đề sử dụng hư từ trong Truyện Kiều . 
 + Phần luyện tập . 
- Một tiết cuối : + Tìm hiểu về sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc 
sử 
 dụng tiếng nói dân tộc. 
 + Tổng kết và đánh giá. 
 B. GỢI Ý TIẾN TRÌNH LÊN LỚP : 
 TIẾT 1,2 : 
 I . Phần mở đầu : Phần giới thiệu : Giáo viên có thể bắt đầu từ vịêc gợi 
ý học sinh nắm lại giá trị nội dung ,nghệ thuật của Truyện Kiều, hoặc Truyện 
Kiều trong đời sống văn hoá người Vịêt Nam  Từ đó giới thiệu về mục 
đích , ý nghiã tầm quan trọng của chủ đề này . 
 II . Phần tổ chức các hoạt động giảng dạy : 
 1 .Vấn đề sử dụng từ ngữ đặc sắc trong Truyện Kiều : 
 Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta 
thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế 
thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư 
từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong 
vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ ... 
 Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ : Khuôn trăng đầy đặn / 
Nét ngài nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không 
chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm 
rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong 
thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc 
đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ Mây thua nước tóc , tuyết 
nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu 
thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước 
cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai . 
 Hay như chữ thông minh trong câu Thông minh vốn sẵn tính trời dùng 
để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó 
là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ 
nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, 
mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , vừa hấp dẫn , rất có hồn , điều đó đã quá 
rõ rồi. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ 
sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng , mà chủ yếu là phẩm 
cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm Truyện Kiều , 
Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng hạn 
như câu Anh minh phát tiết ra ngoài  Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ 
chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều . 
 Còn như từ não trong câu Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân . Ở đây 
, Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này 
diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , 
buồn , là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não 
lòng , não nuột) . Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can 
người đọc . Bởi lẽ , khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến 
cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề . Nó đã 
từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người , Thúc Sinh phải tan nát lòng 
và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến 
cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ . Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã 
trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số 
phận bi thương của Kiều là vì thế . Cả câu Não người cữ gió tuần mưa, thì 
từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy . 
 Nhiều người cho rằng Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt . Đắt vì nhiều khi 
chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người . Đó 
là trường hợp câu thơ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao mà nhà thơ 
dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ . Một 
kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực 
cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ 
người ta thường dùng để chỉ độ trơn , bóng , láng của đồ vật , chứ không 
phải dùng để chỉ tính chất trang nhã , lịch sự của con người . Còn từ bảnh 
bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh 
thì lại có ý chế giễu , mỉa mai . Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ , 
tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm , giả tạo và có phần trai lơ , đàng điếm . 
 Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu Ghế trên ngồi tót sỗ sàng - một 
cử chỉ vội vàng , khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng . 
Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng 
với phẩm cách văn hoá của một giám sinh . Nó qúa bất ngờ so với sự chờ 
đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc 
Tử Giám . Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất 
của Mã Giám Sinh . Tự định vị một cách vô lễ , trịch thượng, chướng mắt 
trên chiếc ghế của người bề trên ( những bậc cao niên ) càng cho thấy tính 
chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có . Chỉ một 
chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã . 
 Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi 
mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm 
ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con 
buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời 
nhất , chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất 
con buôn Nguyễn đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn 
buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện . 
Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu 
Ngưng Bích . Nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực 
độ . Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn 
giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa 
mai đối với nàng . Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén 
chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới . 
 Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . 
Chỉ một từ tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ 
niệm , những điều tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt 
đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là 
nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây 
thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại 
càng không dám mong gì ngày gặp lại . 
 Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không 
dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu 
chỉ đơn thuần là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách 
mình . 
 Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu 
Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn 
đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm 
sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ 
hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng 
về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ 
. 
 Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ , nhiều từ ngữ đặc sắc 
như thế . Chữ cậy em và chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo . Cụ 
Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời 
vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt , câu thơ trở 
nên tầm thường, nhạt nhẻo , không còn ý vị gì nữa . Vì điều Kiều sắp nói 
cho em biết thuộc về chữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho . Do vậy , 
dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất . 
 Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa 
Kiều chạy trốn là tuyệt khéo . Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết 
rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm , dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm , mặc dù điều 
đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ 
dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường . 
 Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ 
hoạn Cất mình qua ngọn tường hoa – câu 2.227 . Chữ cất dùng ở đấy thật 
tuyệt . Vì ý nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua 
tường hay trèo qua tường để trốn đi . 
Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên : 
Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta . Nguyễn 
Du dùng chặn mà không dùng gạn . Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa 
chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều . Quả thật với hoàn cảnh 
Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được . Chữ chặn vì thế 
mà có giá trị biểu cảm cao . 
 Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt , rất độc 
đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa 
mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ 
xuân, 14 từ ngựa , rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài . Ngay như chữ 
chút là một uyển ngữ rất khó dùng , thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 
chữ như thế  
 Bài tập luyện tập : 
1. Tìm hiểu ý nghĩa từ xiêu được Nguyễn Du sử dụng trong trường hợp 
sau: 
 Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu / Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu 
ca. 
 * Gợi ý : 
 Xiêu : Là nỗi khiếp sợ, hãi hùng của Hoạn Thư trông lên thấy người ngồi 
ghế Chánh án chính là Thuý Kiều . 
( GV liên hệ thêm một số câu thơ khác có sử dụng từ xiêu như: 
 - Sóng tình dường đã xiêu xiêu / Xem trong âu yếm có chiều lả lơi . 
 - Lạ cho cái sóng khuynh thành / Làm cho đổ quán xiêu đình như 
chơi. 
 - Sinh đà phách lạc hồn xiêu / Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở 
đây. 
 - Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu / Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu 
ca . 
 - Nàng thì thật dạ tin người / Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.) 
 2 . Cảm nhận của em về cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật qua hai câu thơ 
sau : 
 Vợ chàng quỷ quái tinh ma / Phen này kẻ cắp bà già gặp 
nhau . 
*Gợi ý : 
 Hoạn Thư đã quỷ quái tinh ma ấy vậy mà phải bị Thuý Kiều trị tội , chẳng 
khác nào kẻ cắp ranh mãnh mà lại bị bà già bắt được, âu chi cũng là chuyện 
không ngờ . 
 3 . Nhận xét của em về mối quan hệ giữa chữ tài và chữ tâm ( lòng ) 
trong Truyện Kiều khi Nguyễn Du mở đầu tác phẩm của mình bằng hai câu : 
Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau và kết 
thúc bằng sự trăn trở về tâm và tài : Thiện căn ở tại lòng ta / Chữ tâm kia 
mới bằng ba chữ tài . 
 * Gợi ý 
 - Hai câu mở đầu nói về thuyết tài - mệnh tương đố ; tài sắc mâu thuẫn 
với mệnh trời nghiệp chướng Chữ tài liền với chữ tai một vần ; tài hoa sẽ 
bạc mệnh . 
 - Hai câu ở phần cuối tác phẩm : Truyện Kiều nói nhiều đến chữ tài: tài t 
ử, tài sắc, tài danh, thiên tài, anh tài, gồm tài Song tài không phải là lý 
do chủ yếu của truyện mà là chữ tâm - tức cái tình , tấm lòng . Chính chữ 
tâm đã giúp Kiều nhận ra vẻ đẹp tâm hồn nơi Kim Trọng, khóc than Đạm 
Tiên; thúc giục nàng bán mình chuộc cha, trao duyên cho Thuý Vân ; cũng 
chính chữ tâm khiến nàng tự sát, nhắm mắt chạy theo Sở Khanh, chữ tâm đã 
khiến nàng chọn Từ Hải , báo ân báo oán , tha bổng Hoạn Thư , khuyên Từ 
Hải ra hàng ; cuối cùng là giữ tình cầm cờ với Kim Trọng . Có thể nói trong 
Truyện Kiều chữ tâm đóng một vai trò quan trọng hàng đầu , thúc đẩy sự 
kiện phát triển . Toàn bộ sáng tạo của Nguyễn Du chủ yếu làm cho chữ tâm 
của nhân vật chính được bộc lộ trọn vẹn , sâu sắc và cảm động . 
 TIẾT 3,4,5: 
1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều : 
 Là nhà thơ thiên tài của dân tộc , Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất 
lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ , xây dựng hình tượng nhân vật . Vì thế 
ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều . Cũng giống như 
người xưa , nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai , trăng - 
hoa, mây - tuyết , thu thuỷ - xuân sơn , hoa - liễu Làm chuẩn mực , làm 
thước đo giá trị , vẻ đẹp của con người . Tác giả đã dùng bút pháp cực tả 
tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều . Đó là Mai 
cốt cách , tuyết iình thần , khuôn trăng , nét ngài , hoa cười ngọc thốt , mây 
thua, tuyết nhường , làn thu thuỷ, nét xuân sơn , hoa ghen, liễu hờn Để 
khắc hoạ cái cốt cách thanh tao , mảnh dẻ như mai ; tinh thần trong trắng 
như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị 
em Kiều . 
 Tả nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng : khuôn trăng, nét ngài , hoa 
cười, ngọc thốt , mây thua , tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như 
khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan 
trang, phúc hậu của nàng Vân , vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất 
bình lặng của nàng . 
 Còn với Kiều , Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp 
của Kiều . Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều . Điều đó 
chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức 
đặc biệt . Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung 
tuyệt mỹ của giai nhân như : Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu 
hờn  Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng 
hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng , bình lặng như mặt nước hồ thu 
; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan 
rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc 
nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , 
liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ  Mười lăm năm 
lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó . 
 Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu 
cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn . 
Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , 
rồi nét buồn như cúc , điệu gầy như mai  Nói chung , qua việc sử dụng 
những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , 
nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc . 
2. Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều . 
 Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không 
gian với chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh 
ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống,mờ xa tít tắp với vẻ 
non xa , tấm trăng gần ; với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu 
Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một 
vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như 
sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông . 
 Ngoài ra, trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ 
vũ trụ thi ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng 
thu phải là màu quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa 
xa , đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là Một gian nước biếc 
mây vàng chia đôi . Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ 
liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu 
bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều 
những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng , những lúc tâm 
hồn phân tán  Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại 
bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo 
lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình 
trước cuộc đời . 
 4 . Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều : 
 Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần) , với nhiều 
màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng 
có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ . 
 Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học ( sách 
Ngữ Văn 9 - tập 1) : 
 Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây ; làn da trắng 
mịn hơn cả tuyết ( Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da ) . Ở đây 
Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc . Bởi trong Truyện 
Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc 
mây . 
 Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và 
mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn ( Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém 
xanh ) . 
 Rồi đến màu cỏ non xanh tận chân trời , một màu xanh trải dài mênh 
mông tít tắp , mà nổi bật trên cái nền toàn cảnh màu xanh ấy là sự điểm 
xuyết của một vài bông hoa lê màu trắng . Những màu sắc có sự hài hoà tới 
mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp - những 
màu sắc tươi sáng, đầy sức sống . 
 Không chỉ có màu trắng , màu xanh , Nguyễn Du còn đề cập đến màu 
vàng , màu hồng trong câu Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia . Đó không 
chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi 
cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời . 
 Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu / Chân mây mặt đất 
một màu xanh xanh – là những màu buồn ,ảm đạm, thiếu sức sống , màu 
của bế tắt, không lối thoát . 
 Trong Truyện Kiều ,từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng 
về tính biểu trưng . Tác giả thường lấy màu của sự vật để tả cảnh, gợi tình. Ở 
đây có mặt sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến , có lờn lợt màu da của mụ Tú Bà, 
mặt như chàm đổ của Thúc Sinh v.v... Màu cỏ cũng đa dạng : khi thì Cỏ non 
xanh tận chân trời , khi thì Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh khi thì cỏ 
lợt màu sương , khi thì cỏ áy bóng tà, khi thì Một vùng cỏ mọc xanh rì  
Với Ngyuễn Du màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý . Màu cỏ non 
xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh của cuộc đời , với vẻ thanh 
tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa , Ngọn cỏ nửa vàng nửa 
xanh như cuộc đời dang dở . Cỏ áy bóng tà - cỏ nhuốm ánh vàng của nắng 
chiều như có cái gì xốn xang, day dứt . 
 Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm . Đó là những 
màu quan san, màu quan tái , màu khơi trêu , màu của nỗi nhớ Bốn phương 
mây trắng một màu / Trông vời cố quốc biết đâu là nhà . Hay trời cao trông 
rộng một màu bao la . Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu 
của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên 
cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn  
 5.Về cách sử dụng hư từ : 
 Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều 
của Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng 
một cách độc chiếc trong Truyện Kiều Trải bao thỏ lặn ác tà ; Quản bao 
tháng đợi năm chờ ; Trời Liêu non nước bao xa ; Biết bao duyên nợ thề bồi ; 
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao . Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào 
mà cắt nghĩa được cả : trải bằng nào ngày đêm ; đợi chờ đến bằng nào năm 
tháng ; xa bằng nào ; thề bồi bằng nào ; đội trên đầu bằng nào . Tất cả đều 
có ý hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít . Cũng vậy, chữ bấy được dùng 
độc chiếc như : Khéo vô duyên bấy là mình với ta ; Phủ phàng chi bấy hoá 
công ; Trời làm chi cực bấy trời ; Thân sao bướm chán , ong chường bấy 
thân ; Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa . Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng 
ấy mà cắt nghĩa được cả : vô duyên bằng ấy , phũ phàng bằng ấy , cực bằng 
ấy , chán chường bằng ấy , đoạ đày bằng ấy ; Đều có ý tỏ lòng thương tiếc 
hoặc trách móc . 
 Rồi đến chữ bây , nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc ( Lão kia có 
giở bài bây) . 
 Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao , bây , bấy một chữ để làm 
thành liên tự chỉ thời gian như : bao giờ , bây giờ , bấy giờ  Những hư từ 
này được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều 
 Các liên từ : bao nhiêu , bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh 
hoạt trong tác phẩm , cụ thể là 3 trường hợp sau : 
1. Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường ; Bao nhiêu của , mấy ngày 
đường . Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu. 
 2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên ; Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình 
, thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu . 
 3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi; Bao nhiêu đi đôi với bấy 
nhiêu  
 Bài tập luyện tập : 
 1. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ ước lệ trong câu thơ : 
 A . Vân xem trang trọng khác vời . C . Kiều càng sắc sảo mặn 
mà 
 B . Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu D. Mai cốt cách , tuyết tinh 
thần . 
 * Gợi ý : Đáp án đúng là D. 
 2. Nhận xét của em về ý nghĩa của việc sử dụng từ mà trong câu thơ Có 
tài mà cậy chi tài . Nếu thay chữ mà bằng chữ chớ hoặc chữ đừng có được 
không ? Vì sao ? 
 *Gợi ý : 
 -Xưa nay người ta thường tránh dùng chữ mà và chữ thì , không phải 
vì hai chữđó không hay mà rất khó dùng . Nhưng Nguyễn Du sử dụng 
từ mà trong câu thơ trên đã làm cho câu thơ trở nên có giá trị vì câu thơ 
một nửa hình như là lời than vãn , chán ngán , một nửa như lời khinh bỉ, 
khuyên răn 
 -Nếu đem đổi là Có tài chớ cậy hay đừng cậy chi tài thì câu văn sẽ 
kém ý , có vẻ bảo ban , dạy đời . 
 3. Một số người cho rằng : Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả đôi mắt đẹp 
của nàng Kiều ( Làn thu thuỷ , nét xuân sơn) mà không miêu tả đôi mắt của 
nàng Vân . Ở Vân chỉ thấy Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang ( Lông 
mày và khuôn mặt ) ý kiến của em thế nào ? 
*Gợi ý : 
 Thuý Vân có mắt , một đôi mắt đẹp : trong sáng , tình tứ .Đôi mắt ấy 
nhìn thấy tất cả  , nhưng lại làm như không nhìn thấy gì cả . Một đôi 
mắt hiền lành có vẻ cam chịu , đáng thương. 
 4. Cho biết cái hay trong việc sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc trong các câu 
thơ : 
 - Cát vàng cồn nọ , bụi hồng dặm kia . 
 - Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa . 
 - Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da . 
 - Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh . 
 - Ngập ngừng thẹn lục e hồng  
*Gợi ý : 
 Đặc sắc trong cách sử dụng màu sắc của những câu thơ trên là cách dùng 
từng cặp từ có màu sắc tương phản nhau để làm nổi bật đối tượng qua miêu 
tả và trần thuật . 
 TIẾT 6 : 
 6 . Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ 
thuật . 
 a / Trước hết,cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao , thành ngữ , tục 
ngữ . 
 Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều xuất hiện 
một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ . Để diễn tả nỗi lòng tưởng 
nhớ người yêu , xót thương cha mẹ , Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua 
chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như : dưới nguỵêt 
chén đồng , rày trông mai chờ , tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa , chân 
trời góc bể , tấm son gột rửa, hoa trôi man mác , nội cỏ dàu dàu, chân mây 
mặt đất , gió cuốn mặt duềnh ,ầm ầm tiếng sóng Những từ ngữ này làm 
cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi , dễ hiểu , mang đậm màu sắc dân 
tộc . 
 b / Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều . 
 Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế , cũng 
không có trong từ điển thông thường ; mà theo ông Trần Đình Sử đó là 
những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không 
phải là hình ảnh sao chép thực tại ) có cấu tạo riêng , nói lên sự cảm thụ chủ 
quan của tác giả : 
 Nói tới nước mắt thì nói giọt ngọc , giọt châu , giọt tương , giọt hồng , 
giọt tủi, giọt riêng ... 
 Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân , giấc mai, giấc hoè , giấc tiên, 
giấc nồng  
 Nói tới mái tóc , không chỉ là tóc mây , tóc sương mà là mái sầu . 
 Nói tới đường xa , ông nói thành dặm hồng , dặm xanh , dặm băng ,dặm 
khách , dặm phần  
 Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân , chén quỳnh , chén đưa, chén 
mời , chén khuyên chén đồng  mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống 
. 
 Nói tới cửa sổ ông cũng nói bằng những từ của riêng ông : song sa , song 
mai , song hồ , song mây , song trăng , song đào , song phi  
 Nói tới bóng trăng thì là bóng nga, bóng nguyệt  
 Nói tói tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành 
hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng  
 Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : gió mưa , gió trăng , gió trúc 
mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu  
 Những ngôn từ ý tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ 
nghệ thuật Truyện Kiều . Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để 
tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá . 
 Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết 
hợp không đâu có . Chẳng hạn : ăn gió nằm mưa , bướm chán ong chường , 
bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son ,dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc, 
gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu , gió trúc mưa mai , gió giục mây vần , 
hoa thải hương thừa , hồn rụng phách rời , lấy gió cành chim , tô lục chuốt 
hồng , tiếc lục tham hồng , liễu ép hoa nài , liễu chán hoa chê , ngày gió đêm 
trăng , nắng giữ mưa gìn Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái 
sự vật có ý nghĩa phổ quát , diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ 
cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi . 
 Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt , chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn 
Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật . Nói Nguyễn 
Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật 
của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó . Điều này có ý nghĩa 
đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là 
một tấm gương tiêu biểu . 
C. HƯỚNG DẪN TỔNG KẾT, ĐÁNH GIÁ: : 
 I . Tổng kết : 
 1 / Chủ đề này đề cập đến những phương diện nào trong nghệ thuật 
ngôn từ của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều ? 
 2/ Em tâm đắc vấn đề nào nhất ? Cho biết vì sao ? 
 3 / Em học hỏi được gì trong cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật của 
Nguyễn Du ? 
 ( Học sinh thảo luận và đi đến tổng kết) . 
 Dùng từ mà được như Nguyễn Du quả không phải là dễ chút nào . Rõ 
ràng đó là Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu . 
 II . Đánh giá : Có thể dùng hình thức trắc nghiệm hoặc tự luận để đánh 
giá . 
 Tham khảo một số đề kiểm tra ,đánh giá sau : 
 (1) Cách sử dụng từ ngữ trong các câu sau có gì đặc biệt ? 
- Hồng quân với khách hồng quần . 
- Bạc tình nổi tiếng lầu xanh . 
- Chữ tài liền với chữ tai một vần . 
- Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa  
 ( Đó là cách chơi chữ trên các màu sắc và âm vận của từ ) 
 (2) Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 8 đến 10 dòng ) nói lên suy nghĩ 
của em về ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du . 
 (3) Phân tích đặc điểm ngôn từ nghệ thuật trong một đoạn thơ ngắn , 
(chẳng hạn : Phân tích tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích 
để thấy cái hay cái đẹp của việc sử dụng ngôn từ trong câu thơ Nguyễn Du ) 
 ---------------------------------------------. 

File đính kèm:

  • pdfchu_de_tu_chon_ngu_van_9_ve_dep_ngon_tu_nghe_thuat_truyen_ki.pdf