Giáo án Bồi dưỡng HSG Ngữ văn 9

Chuyên đề 1

Buổi 1 Ngày dạy:9/9/3013

I. ý nghĩa xã hội của các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn.

 Văn học Việt Nam, cả văn học dân gian và văn học viết là sản phẩm tinh thần quý báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong ửctường kì lịch sử. Mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, văn học lại có những nội dung cụ thể, phản ánh một cách chân thực về xã hội và con người thời kì đó. Vốn có tinh thần cộng đồng ngay từ buổi đầu hình thành dân tộc, lại phải trải qua nhiều cuộc xâm lăng, phải thường xuyên vật lộn với những khắc nghiệt của thiên nhiên để sinh tồn và phát triển nên tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng đã trở thành truyền thống sâu sắc và bền vững của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong tinh thần phục hưng dân tộc ở thời Lí, trong hào khí Đông A thời Trần, trong ý thức sâu sắc và đầy tự hào về đất nước, về dân tộc ở thơ văn Nguyễn Trãi. Tinh thần ấy lại sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha hơn bao giờ hết trong thơ văn chống Pháp, trong văn học yêu nước đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong văn học của hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tinh thần yêu nước còn thể hiện trong những rung động và niềm yêu mến, tự hào về quê hương, thiên nhiên đất nước, tự hào về tiếng nói của dân tộc

 

doc 61 trang phuongnguyen 30/07/2022 8940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án Bồi dưỡng HSG Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án Bồi dưỡng HSG Ngữ văn 9

Giáo án Bồi dưỡng HSG Ngữ văn 9
Chuyờn đề 1
Buổi 1 Ngày dạy:9/9/3013
I. ý nghĩa xã hội của các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn.
	Văn học Việt Nam, cả văn học dân gian và văn học viết là sản phẩm tinh thần quý báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong ửctường kì lịch sử. Mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, văn học lại có những nội dung cụ thể, phản ánh một cách chân thực về xã hội và con người thời kì đó. Vốn có tinh thần cộng đồng ngay từ buổi đầu hình thành dân tộc, lại phải trải qua nhiều cuộc xâm lăng, phải thường xuyên vật lộn với những khắc nghiệt của thiên nhiên để sinh tồn và phát triển nên tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng đã trở thành truyền thống sâu sắc và bền vững của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong tinh thần phục hưng dân tộc ở thời Lí, trong hào khí Đông A thời Trần, trong ý thức sâu sắc và đầy tự hào về đất nước, về dân tộc ở thơ văn Nguyễn Trãi. Tinh thần ấy lại sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha hơn bao giờ hết trong thơ văn chống Pháp, trong văn học yêu nước đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong văn học của hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tinh thần yêu nước còn thể hiện trong những rung động và niềm yêu mến, tự hào về quê hương, thiên nhiên đất nước, tự hào về tiếng nói của dân tộc
	Các sáng tác văn học còn đề cao tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người - một truyền thống sâu đậm của văn học Việt Nam. Tất cả đều hướng về khẳng định những giá trị tốt đẹp của con người, lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước về tự do, lẽ công bằng. Nhiều tác phẩm hướng tinh thần nhân đạo vào những tầng lớp nghèo khổ, tố cáo mạnh mẽ những bất công xã hội, những thế lực thống trị, áp bức và lên tiếng đòi quyền sống xứng đáng cho con người. Các tác phẩm văn học mới đặc biệt hướng vào khẳng định những phẩm chất tốt đẹp và sức mạnh giải phóng của quần chúng nhân dân lao động, ngợi ca những tình cảm cộng đồng nh tình đồng chí, đồng bào.
	Nhiều tác phẩm đề cập đến những vườn đề gần gũi thiết thực trong đời sống tinh thần của mỗi con người nh tình cảm gia đình, sự giật mình thức tỉnh của lơng tâm trước vòng xoáy cuộc đời, truyền thống uống nước nhớ nguồn, những bài học đạo đức nhẹ nhàng mà sâu sắc về cái đẹp, tình yêu thương loài vật
	Văn học Việt Nam có lịch sử lâu dài, gắn bó mật thiết với lịch sử, với vận mệnh của nhân dân, lu giữ và toả chiếu tinh hoa, bản sắc tâm hồn dân tộc qua các thời đại; là vốn quý của nền văn hoá dân tộc; nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn, tính cách, tư tưởng cho các thế hệ người Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Tất cả các nội dung đó đều mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc và đều có thể trở thành một đề tài độc đáo cho các bài làm văn nghị luận, nhất là kiểu bài làm văn nghị luận xã hội.
II. Đặc trưng của kiểu bài nghị luận xã hội. 
	Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vườn đề nào đó đặt ra trong cuộc sống. Người viết sẽ trình bày các tư tưởng, quan điểm của mình về vườn đề đặt ra nhằm thuyết phục người đọc tán thành và làm theo. Vườn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng, văn bản nghị luận càng có giá trị. Nghệ thuật nghị luận càng sắc bén, chặt chẽ, văn bản càng có tác dụng rộng rãi và mạnh mẽ. Nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn, từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng đời sống đến bàn luận những vườn đề chính trị, chính sách, từ những vườn đề đạo đức, lối sống đến những vườn đề có tầm chiến lợc, những vườn đề tư tưởng triết lí. 
Hình thức nghị luận thứ nhất là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Vốn sống của học sinh bắt đầu từ nhận thức về từng sự việc trong đời sống hàng ngày: một vụ cãi lộn, đánh nhau, một vụ đụng xe dọc đường, một việc quay cóp khi làm bài, một hiện tượng nói tục, chửi bậy, thói ăn vặt xả rác, trẻ em hút thuốc lá, đam mê trò chơi điện tử, bỏ bê học tập Các sự việc, hiện tượng như thế học sinh nhìn thấy hằng ngày ở xung quanh nhưng ít có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chúng về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng xung quanh mà các em không xa lạ, từ những suy nghĩ của bản thân mà viết những bài văn nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, đánh giá đúng đắn của mình. Đó có thể coi là một hình thức nghị luận phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh.
	Hình thức nghị luận thứ hai là nghị luận về một vườn đề tư tưởng, đạo lí bàn về một tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người. Các tư tưởng đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Những tư tưởng, đạo lí ấy thường đựơc nhắc đến trong đời sống song hiểu cho rõ, cho sâu, đánh giá đúng ý nghĩa của chúng là một yêu cầu cần thiết đối với mỗi người. 
	Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có phần giống với bài nghị luận về về một sự việc, hiện tượng đời sống ở chỗ: sau khi phân tích sự việc, hiện tượng, ngi viết có thể rút ra những tư tưởng và đạo lí đời sống. Nhưng hai kiểu bài này khác nhau về xuất phát điểm và lập luận. Về xuất phát điểm, bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xuất phát từ sự thực đời sống mà nêu tư tưởng, bày tỏ thái độ. Bài nghị luận về vườn đề tư tưởng đạo lí, sau khi giải thích, phân tích thì vận dụng các sự thật đời sống để chứng minh nhằm trở lại khẳng định (hay phủ định) một tư tưởng nào đó. Đây là nghị luận nghiêng về tư tưởng, khái niệm, lí lẽ nhiều hơn; các phép lập luận giải thích, chứng minh, tổng hợp thường được sử dụng nhiều.
	Nh vậy, kiểu bài nghị luận xã hội trước hết được dùng để bàn luận, đánh giá, nhận xét về những vườn đề xã hội, những hiện tượng, sự việc hoặc những vườn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người. Như trên đã chỉ ra, các tác phẩm văn học cũng trở thành một nguồn đề tài vô cùng phong phú, có nhiều nội dung trở thành đối tượng của kiểu bài nghị luận. Trong chương trình Ngữ văn 9, nhiều tác phẩm đã tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con người Việt Nam trong suốt thời kì lịch sử từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ với nhiều gian khổ, hi sinh nhưng rất anh hùng, công cuộc lao động xây dựng đất nước và những quan hệ tốt đẹp của con người. Những điều chủ yếu mà các tác phẩm đã thể hiện chính là tâm hồn, tình cảm, tư tưởng con người trong một thời kì lịch sử có nhiều biến động lớn lao, những đổi thay sâu sắc: tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí, sự gắn bó với cách mạng, lòng kính yêu Bác Hồ, những tình cảm gần gũi bền chặt của con người như tình bà cháu, tình mẹ con trong sự thống nhất chung những tình cảm rộng lớn. dưới đây là một số ví dụ cụ thể để minh chứng và có thể coi là một tư liệu vận dụng trong quá trình giảng dạy nhằm mục đích củng cố sâu sắc hơn kiến thức đọc hiểu của học sinh, khả năng liên hệ đến thực tế và rèn thêm kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho các em.
III. Từ văn bản đến bài văn nghị luận xã hội.
1. Yêu cầu chung của bài văn nghị luận xã hội lấy đề tài từ các văn bản.
a. Mục đích kiểu bài: 
	- Củng cố kiến thức văn bản cho học sinh, giúp các em hiểu thêm về ý nghĩa của văn chương trong đời sống xã hôi. Khẳng định tính giáo dục, tính tư tưởng của tác phẩm, và bồi đắp thêm tình cảm cho học sinh với văn học, tình cảm với cuộc sống, con người xung quanh.
	- Rèn luyện kĩ năng làm văn, khả năng liên hệ và đánh giá một vườn đề văn học mang tính xã hội. 
b. Xác định đúng kiểu bài: Nghị luận xã hội (Phần lớn là nghị luận về một vườn đề tư tưởng đạo lí).
c. Xác định nội dung nghị luận của đề bài yêu cầu: 
- Đề có thể yêu cầu rõ, nghị luận về một vườn đề tư tưởng đạo lí đã được xác định trong nội dung bài học. Ví dụ: lí tưởng của thanh niên ngày nay (được gợi ý từ văn bản “Lặng lẽ Sa Pa”), ý nghĩa của gia đình và quê hương trong đời sống con người (được gợi ý từ văn bản “Nói với con”), mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể (được gợi ý từ kịch “Tôi và chúng ta”, “Mùa xuân nho nhỏ”)
	- Đề có thể mở để học sinh chọn lựa nội dung nghị luận, bàn sâu vào một vườn đề nào đó được gợi ý từ văn bản đã học. Ví dụ: vẻ đẹp của đức tính khiêm nhường em học được trong ý thơ Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, và cũng ở đó có thể chọn nội dung nghị luận khác quan niệm về sự cống hiến của mỗi cá nhân với quê hương, với cuộc đời chung
d. Các nội dung chính trong bài viết: 
- Trước hết học sinh hiểu và phải trình bày được những ý hiểu của mình về nội dung mà tác phẩm đề cập đến. Đây là ý phụ trong bài viết nhưng không thể thiếu và cũng không làm quá kĩ dễ lạc sang kiểu bài nghị luận văn học. Học sinh bằng sự phân tích để đi đến khái quát nội dung xã hội cần nghị luận. 
- Nội dung chính của bài viết là các em cần trình bày những hiểu biết của bản thân về vườn đề xã hội được nhắc đến trong văn bản bằng vốn kiến thức thực tế trong cuộc sống, thực trạng của vườn đề với các mặt tốt - xấu, đúng - sai, cũ - mới Từ đó bày tỏ thái độ, quan điểm và đa ra những giải pháp, liên hệ mở rộng vườn đề , giải quyết vườn đề sâu sắc và thuyết phục. 
e. Hình thức của bài viết: 
- Bài viết đảm bảo bố cục thông thường một bài văn nghị luận: mở bài, thân bài và kết luân. Các đoạn văn trong bài có tính liên kết chặt chẽ cả về nội dung và hình thức- Diễn đạt bằng các hình thức lập luận của văn nghị luận: giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp. Dẫn chứng của kiểu bài này có phạm vi rộng, nhiều nhất là trong đời sống xã hội và có thể trong cả văn học, lịch sử
Buổi 2 Ngày dạy:16/9/2013
 Một số đề văn nghị luận xã hội từ các văn bản.
Đề số 1: Trong bài thơ “Con cò” nhà thơ Chế Lan Viên có viết: 
	“Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
	Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” 
 ý thơ gợi cho em những suy nghĩ gì về tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người.
Để làm được đề bài này, học sinh cần xác định đúng các yêu cầu sau: 
- Kiểu bài: Nghị luận xã hội (nghị luận về một vườn đề tư tưởng đạo lí)
- Nội dung nghị luận: Vẻ đẹp (ý nghĩa) của tình mẹ trong cuộc đời mỗi con người. 
- Phạm vi t liệu: Những hiểu biết và suy nghĩ của cá nhân về tình mẹ trong cuộc sống của mỗi người.
- Các nội dung cần viết: 
+ Giải thích qua ý thơ của tác giả Chế Lan Viên (ý phụ): Dựa trên nội dung bài thơ “Con cò”, đặc biệt là hai câu thơ mang ý nghĩa triết lí sâu sắc khẳng định tình mẹ bao la, bất diệt. Trước mẹ kính yêu, con dù có khôn lớn trởng thành nh thế nào đi chăng nữa thì vẫn là con bé nhỏ của mẹ, rất cần và luôn được mẹ yêu thương, che chở suốt đời. 
+ Khẳng định vai trò của mẹ trong cuộc sống của mỗi người (ý chính): Mẹ là người sinh ra ta trên đời, mẹ nuôi nấng, chăm sóc, dạy dỗ chúng ta. Mẹ mang đến cho con biết bao điều tuyệt vời nhất: nguồn sữa trong mát, câu hát thiết tha, những nâng đỡ, chở che, những yêu thương vỗ về, mẹ là bến đỗ bình yên của cuộc đời con, là niềm tin, là sức mạnh nâng bước chân con trên đường đời, Công lao của mẹ như nước trong nguồn, nước biển Đông vô tận. (Dẫn chứng cụ thể) 
+ Mỗi chúng ta cần phải làm gì để đền đáp công ơn của mẹ? Cuộc đời mẹ không gì vui hơn khi thấy con mình mạnh khoẻ, chăm ngoan, giỏi giang và hiếu thảo. Mỗi chúng ta cần rèn luyện, học tập và chăm ngoan để mẹ vui lòng: vâng lời, chăm chỉ, siêng năng, học giỏi, biết giúp đỡ cha mẹ(Có dẫn chứng minh hoạ).
+ Phê phán những biểu hiện, những thái độ, hành vi cha đúng với đạo lí làm con của một số người trong cuộc sống hiện nay: cãi lại cha mẹ, ham chơi, làm những việc vi phạm pháp luật để mẹ lo lắng, đau lòng Có thể phê phán tới cả những hiện tượng mẹ ruồng rẫy, vất bỏ con, cha làm tròn trách nhiệm của người cha, người mẹ
+ Liên hệ, mở rông đến những tình cảm gia đình khác: tình cha con, tình cảm của ông bà và các cháu, tình cảm anh chị em để khẳng định đó là những tình cảm bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi người. Vì vậy mỗi chúng ta cần gìn giữ và nâng niu. Tình cảm gia đình bền vững cũng là cội nguồn sức mạnh dựng xây một xã hội bền vững, đẹp tơi. 
Đề số 2: Lấy tựa đề “Gia đình và quê hương - chiếc nôi nâng đỡ đời con”, hãy viết một bài nghị luận nêu suy nghĩ của em về nguồn cội yêu thương của mỗi con người. - Đề bài này được dựa trên nội dung, ý nghĩa của bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, một bài thơ đã viết rất thành công về gia đình và quê hương bằng phong cách rất riêng của một nhà thơ dân tộc.
- Bài viết của học sinh trên cơ sở kiến thức văn bản đó cần đảm bảo các yêu cầu sau: 
+ Khẳng định ý nghĩa của gia đình và quê hương trong cuộc sống của mỗi con người: Gia đình là nơi có mẹ, có cha, có những người thân yêu, ruột thịt của chúng ta. ở nơi ấy chúng ta được yêu thương, nâng đỡ, khôn lớn và trởng thành. Cùng với gia đình là quê hương, nơi chôn nhau cất rốn của ta. Nơi ấy có mọi nguời ta quen biết và thân thiết, có cảnh quê thơ mộng trữ tình, có những kỉ niệm ngày ấu thơ cùng bè bạn, những ngày cắp sách đến ửctường Gia đình và quê hương sẽ là bến đỗ bình yên cho mỗi con người; dù ai đi đâu, ở đâu cũng sẽ luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về nguồn cội yêu thương. 
+ Mỗi chúng ta cần làm gì để xây dựng quê hương và làm rạng rỡ gia đình? Với gia đình, chúng ta hãy làm tròn bổn phận của người con, người cháu: học giỏi, chăm ngoan, hiếu thảo để ông bà, cha mẹ vui lòng. Với quê hương, hãy góp sức trong công cuộc dựng xây quê hương: tham gia các phong trào vệ sinh môi ửctường để làm đẹp quê hương, đấu tranh trước những tệ nạn xã hội đang diễn ra ở quê hương. Khi trởng thành trở về quê hương lập nghiệp, dựng xây quê mình ngày một giầu đẹp
+ Có thái độ phê phán trước những hành vi phá hoại cơ sở vật chất, những suy nghĩ cha tích cực về quê hương: chê quê hương nghèo khó, chê người quê lam lũ, lạc hậu, làm thay đổi một cách tiêu cực dáng vẻ quê hương mình 
+ Liên hệ, mở rộng đến những tác phẩm viết về gia đình và quê hương để thấy ý nghĩa của quê hương trong đời sống tinh thần của mỗi con người: “Quê hương” (Đỗ Trung Quân), “Quê hương” (Giang Nam), “Quê hương” (Tế Hanh), “Nói với con” (Y Phương)
+ Nâng cao: Nguồn cội của mỗi con người là gia đình và quê hương, nên hiểu rộng hơn quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra và lớn lên, quê hương còn là Tổ quốc; tình yêu gia đình luôn gắn liền với tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Mỗi con người luôn có sự gắn bó những tình cảm riêng tư với những tình cảm cộng đồng 
Đề số 3: Trước khi vĩnh biệt cõi đời, nhà thơ Thanh Hải gửi lại lời trăng trối bằng những thật câu thơ giản dị:
	 	“Ta làm con chim hót
	Ta làm một cành hoa
	Ta nhập vào hoà ca
	Một nốt trầm xao xuyến.
	Một mùa xuân nho nhỏ
	Lặng lẽ dâng cho đời
	Dù là tuổi hai mơi
	Dù là khi tóc bạc.” 
	 (Trích “Mùa xuân nho nhỏ”)
 Theo em tác giả đã nhẹ nhàng nhắc chúng ta điều gì qua những dòng thơ ấy? 
	Bài viết của học sinh cần đảm bảo một số yêu cầu sau: 
- Hiểu khái quát về ý thơ của nhà thơ Thanh Hải: Những câu thơ bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước, thể hiện khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé của mình cho đất nước, cho cuộc đời chung. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những tình ảnh thơ đệp một cách tự nhiên, giản dị. Đó mới là ý nghĩa cao quý của đời người.
- HS có thể bàn luận sâu về một trong các ý sau : 
+ Vẻ đẹp của đức tính khiêm nhường, thái độ của mỗi cá nhân trước những cống hiến vì tập thể, vì quê hương. HS cần nêu rõ khiêm nhường là gì, biểu hiện của đức tính khiêm nhường, ý nghĩa của đức tính khiêm nhường trong cuộc sống, trái với khiêm nhường là tự kiêu, tự đại
+ ý nghĩa của cuộc đời mỗi con người trong cuộc đời chung: Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét đẹp riêng, phải cống hiến cái phần tinh tuý, dù là bé nhỏ cho đất nước và phải không ngừng cống hiến dù khi còn trẻ hay lúc tuổi đã già.
- Trong bài viết cần có dẫn chứng về người thật, việc thật hoặc các dẫn chứng có từ trong các tác phẩm văn học được học và đọc thêm trong chương trình nh: “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long), “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê), “Khoảng trời, hố bom” (Lâm Thị Mĩ Dạ)...
- Liên hệ tới bản thân về thái độ sống khiêm nhường trước mọi người, trước bạn
bè (Nếu chọn ý 1). Hoặc liên hệ tới bản thân khi còn là học sinh cần làm gì để góp phần
vào việc dựng xây quê hương, đất nước, xây đắp cuộc đời chung (Nếu chọn ý 2).
 Buổi 3 Ngày dạy:23/9/2013
Đề số 4: Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) vào những ngày cuối cùng của cuộc đời mình đã tìm thấy vẻ đẹp quê hương nơi bãi bồi bên kia sông ngay trước của sổ nhà mình. Sự phát hiện đó của Nhĩ gợi cho em suy nghĩ gì về cái đẹp trong cuộc sống?
 - HS phải xác định được bài viết thuộc kiểu bài nghị luận xã hội-nghị luận về một vườn đề t tởn: Quan niệm về cái đẹp trong cuộc sống của mỗi con người.
- Bài làm cần đảm bảo cơ bản các nội dung sau: 
+ Phân tích được tâm trạng của nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời khi phát hiện ra bãi bồi bên kia sông, ngay trước của sổ nhà mình. Nhĩ trước đó từng đi khắp mọi nơi trên trái đất nhưng về cuối đời anh mắc bệnh trọng nằm liệt giờng mọi hoạt động của anh đều phải nhờ vào người thân. Chính lúc này anh mới nhận ra vẻ đẹp của những cánh hoa bằng lăng, của mặt sông Hồng màu đỏ nhạt, một dải đất bồi dấp dính phù sa, của những sắc màu thân thuộc nh da thịt, nh hơi thở thân thuộc. Đó là những phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng gửi gắm tâm trạng của một con người nặng trĩu những từng trải, đau thương: yêu quê hương nhưng một đời phải li hương, thường hờ hững và mắc vào những điều vòng vèo, chùng chình nên bây giờ cảm thấy tiếc nuối, xa xôi. Qua đó nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến mọi người một thông điệp: Cái đẹp thật gần gũi, cái đẹp nằm ngay trong những điều giản dị, tiêu sơ của cuộc đời mà mỗi người vì sự thờ ơ có thể lãng quên.
+ Khẳng định cái đẹp nằm trong những điều giản dị, gần gũi: cái đẹp trong lời ăn tiếng nói, trong trang phục giản dị hợp người hợp cảnh, trong gia đình với ngôi nhà sạch sẽ gọn gàng, trong cách trang trí nhẹ nhàng thanh thoát không một chút cầu kì, phô trương; cái đẹp trong một buổi sớm mai trên con đường quen thuộc từ nhà đến ửctường, trong những bông hoa dại ven đường mong manh bé nhỏ; cái đẹp trong những cử chỉ thân mật gắn bó giữa bạn bè 
+ Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực của cuộc sống. Trước hết mỗi người phải biết yêu cái đẹp, trân trọng và nâng niu vẻ đẹp trong cuộc đời. Mỗi người phải biết tạo ra cái đẹp cho mình và cho mọi người để tô điểm cho cái đẹp của cuộc sống quanh ta. Có thể liên hệ tới những câu nói “ăn cho mình mặc cho người” hoặc “Không có người phụ nữ náo xấu, chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp mà thôi”
+ Phê phán những quan niệm sai lầm về cái đẹp của nhiều người trong cuộc sống hiện nay: đẹp là phải ăn mặc sành điệu, đúng mốt hợp thời trang, đẹp là phải sống trong ngôi nhà cao tầng trang trí cầu kì sang trọng trong khi chủ nhân của những trang phục, ngôi nhà đó sống cha đẹp; đẹp là phải đi đến những nơi xa lạ, những nơi có danh lam thắng cảnh trong khi người khách du lịch ấy cha nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn môi ửctường xung quanh, xem thường những nơi từng gắn bó, thân quen từ trước
+ Từ đó biết làm đẹp cho mình một cách phù hợp, làm đẹp cho quê hương, cho cuộc đời chung, biết trân trọng những giá trị đích thực, giản dị và bền vững của cuộc đời. Liên hệ đến ý thơ của tác giảTố Hữu: 
	 	 “Còn gì đẹp trên đời hơn thế.
	 Người với người sống để yêu nhau.”
Yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng là một cách sống đẹp.
 Đề số 5: Từ nhan đề và ý nghĩa vở kịch: “Tôi và chúng ta” của tác giả Lu Quang Vũ, hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay.
	- HS cần xác định đúng yêu cầu đề bài: nghị luận về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống hiện nay. (Dựa trên những kiến thức đọc hiểu văn bản kịch “Tôi và chúng ta”). Đây là một vườn đề tư tưởng mang tính xã hội sâu sắc mà cuộc sống hiện nay rất cần phải đặt ra và cũng là một vườn đề khó đối với học sinh.
	- Bài cần đảm bảo các ý chính sau: 
	+ HS trình bày những hiểu biết khái quát về nhan đề và ý nghĩa vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lu Quang Vũ. Vở kịch phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi tổ chức, lề lối hoạt động sản xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi. Một bên là tư tưởng bảo thủ kh kh giữ lấy nguyên tắc, quy chế cứng nhắc, lạc hậu với một bên là tinh thần giám nghĩ giám làm, khát khao đổi mới vì lợi ích của tập thể. Qua nhan đề, cùng với xung đột của hai phía, tác giả khẳng định không có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung. Cái ta được hình thành từ nhiều cái tôi cụ thể. Cái tôi vì tập thể, vì cái chung, cái tôi phải được hoà trong cái ta nhưng cần có tiếng nói riêng và đúng đắn theo những quan điểm tiến bộ của thời đại. 
	+ HS trình bày những hiểu biết về cái tôI và cái ta. Tôi là số ít, là một cá nhân với những suy nghĩ và cuộc sống riêng. Ta vừa là số ít vừa là số nhiều nhưng được hiểu ở đây là chỉ số nhiều, chỉ tập thể của nhiều cái tôi cùng tham gia. Giữa Tôi và Ta phải có mối quan hệ nhất định: trong tôi có ta, trong ta có tôi. Có tập thể khi có nhiều cá nhân cùng tham gia, trong tập thể có tiếng nói cá nhân. Một tập thể mạnh khi có nhiều cá nhân xuất sắc, một tổ chức ổn định thì đời sống cá nhân cũng ổn định, vững vàng
	+ Những biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống hiện nay: 
	Trong nhiều tổ chức, nhiều tập thể vẫn có những cá nhân hết lòng cống hiến sức khoẻ, năng lực, tâm huyết để dựng xây cơ quan, đơn vị mình công tác. Họ có thể là những lãnh đạo của cơ quan, họ cũng có thể là các nhân viên, bảo vệ, là các bạn cán bộ lớp, các thành viên trong lớp Đơn vị đó vì vậy mà không ngừng lớn mạnh góp thêm vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, phong trào của nhà ửctường (Dẫn chứng minh hoạ, có thể trong các văn bản đã học)
	Nhưng trước những biến động và đổi thay không ngừng của nền kinh tế thị ửctường, nhu cầu cuộc sống cá nhân ngày một khác đã trở thành khá phổ biến những quan niệm cho rằng trước hết phải vì cuộc sống của chính mình, vì lợi ích của riệng mình. Vì vậy trước tập thể nhiều cá nhân đã không đóng góp hết mình và dựa dẫm ỉ lại vào số đông theo suy nghĩ “Nước nổi thì bèo nổi”. Họ tìm cách để thu vào túi mình những nguồn lợi lớn nhất để ổn định cuộc sống gia đình và hởng thụ, họ thờ ơ trước những thay đổi của đơn vị mình, thờ ơ trước những khó khăn của mọi người xung quanh. Họ không giám đấu tranh trước những cái sai, cái xấu, bàng quan và vô u vì sợ liên luỵ đến mình, ảnh hởng đến danh tiếng, chức sắc, thu nhập Có thể nói mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay có phần xấu đi, dường nh mọi người chỉ còn làm việc theo trách nhiệm và làm vừa đủ, vừa đúng thậm chí cha hoàn thành công việc của mình(Dẫn chứng ở tập thể lớp, ở địa phương hoặc ở một cơ quan đơn vị mà em biết).
	+ Trước hiện trạng đó mỗi cá nhân chúng ta cần phải làm gì? Xác định lại quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tinh thần trách nhiệm của mỗi người trong tổ chức, đơn vị mình công tác và sinh hoạt. Tập thể phải bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân, bênh vực cá nhân, động viên, khích lệ họ vượt lên mọi hoàn cảnh để có nhiều đóng góp vì lợi ích chung
	+ Liên hệ mở rộng đến những quan điểm của người xa:
	“Một cây làm chẳng lên non
	 Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” 
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể còn được hiểu rộng ra là sự hợp tác và hữu nghị không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế. Trong cơ chế hoà nhập ngày nay cá nhân nói riêng, đơn vị, cơ quan, tỉnh thành, quốc gia cần kịp thời nắm bắt cơ hội hoà nhập nhưng trong sự hoà nhập đó không có sự hoà tan, trong cái riêng có những cái chung và ngược lại. Tất cả vì tinh thần đoàn kết, hoà bình cùng phát triển và tiến bộ
4. Một số đề tham khảo: 
	Đề số 1: Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình yêu làng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” được nhà văn Kim Lân viết lại thật chân thành và cảm động. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tình yêu làng của những người con quê hương được thể hiện nh thế nào? Hãy bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng đó.
Đề số 2: Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Đọc sách có ba điều tốt: mắt tốt, miệng tốt, tâm tốt”; nhà lí luận văn học, nhà mĩ học Chu Quang Tiềm trong bài “Bàn về đọc sách” cũng khẳng định: “ Học vườn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là con đường quan trọng của học vườn”. Sách có tầm quan trong nh vậy nhưng hiện trạng của việc đọc sách ngày nay nh thế nào, hãy bàn về điều đó?
Đề số 3: Từ văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của tác giả Vũ Khoan đến những suy nghĩ của em về hành trang của người học sinh trong một xã hội với những phát triển không ngừng về khoa học, công nghệ và kinh tế nh hiện nay.
Đề số 4: Gác-xi-a Mác-két trong bài viết “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” đã chỉ ra nguy cơ của chiến tranh hạt nhân đe doạ loài người và nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh để ngăn chặn nguy cơ ấy. Là một người yêu chuộng hoà bình, em gửi thông điệp gì đến mọi người để bảo vệ nền hoà bình thế giới? 
Đề số 5: “Truyện Kiều” được coi là “đền thiêng” của nền văn học Việt Nam nói riêng, nền văn hoá dân tộc nói chung. Nhiệm vụ của em trong việc bảo vệ và giữ gìn những giá trị tinh thần đó của dân tộc.
 Đề số 6: Kết thúc truyện ngắn “Cố hương” nhà văn Lỗ Tấn có viết: “Cũng giống nh con đường trên mặt đất; kì thực làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường đi đến thành công trong học tập có giống “con đường trên mặt đất”
Chuyờn đề 2- Phần cảm thụ văn học
 Buổi 4 Ngày soạn:30/9/2013
1. Lí thuyết và kĩ năng phần cảm thụ văn học GV tham khảo nội dung được học ở các lớp dưới.
2. Một số lu ý khi cảm thụ văn học trong làm văn lớp 9: 
- Ngoài kĩ năng cảm thụ đã học, HS cần gia tăng trong bài viết của mình cách đánh giá, bình luận, khả năng liên hệ, so sánh, khái quát về đối tượng cảm thụ.
- Hành văn sắc sảo, có thể bộc lộ quan điểm của cá nhân trước đối tượng cảm thụ, có thể đi ngược với những cách cảm nhận thông thường nhưng phải đủ lời lẽ để thuyết phục mọi người về quan điểm cá nhân đa ra.
- Vì lớp 9 là năm cuối cấp nên nội dung cảm thụ có thể có những vườn đề đã được học trong các chương trình lớp dưới, chương trình đang học và cả những kiến thức ngoài chương trình (mới) để đánh giá khả năng cảm thụ của các em một cách khách quan. 
3. Một số nội dung cảm thụ văn học: 
- Một bài thơ, một bài ca dao, một đoạn trích trong tác phẩm thơ hoặc truyện (Có thể trong chương trình lớp 9 hoặc các lớp 6,7,8 và các văn bản khác ngoài chương trình.
- Cảm thụ trên cơ sở so sánh các nội dung về cùng một đề tài, của cùng một tác giả, cùng một thời đại
4. Một số đề bài tham khảo: 
Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp cảnh ra khơi trong các đoạn thơ sau: 
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng nh con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt ửctường giang.
Cánh buồm giương to nh mảnh hồn làng
Rớn thân trắng bao la thâu góp gió”
 (Quê hương, Tế Hanh)
 “Mặt trời xuống biển nh hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
 (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
 Đề 2: Vẻ đẹp của mùa thu xa và nay trong những dòng thơ: 
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”
 (Nguyễn Du)
Và: “Bỗng nhận ra hương ổi
 Phả vào trong gió se
 Sơng chùng chình qua ngõ
 Hình nh thu đã về”
 (Hữu Thỉnh)
Đề 3: Hãy cùng nhà thơ Hữu Thỉnh đón chào vẻ đẹp một ngày thu trong bài thơ “Chiều sông Thương” của tác giả: 
Đi suốt cả ngày thu 
Vẫn cha về tới ngõ
Dùng dằng câu quan họ
Nở tím bên sông Thương.
Nước vẫn nước đôi dòng
Chiều uốn cong lỡi hái
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên.
Đám mây trên Việt Yên 
Rủ bóng về Bố Hạ
Lúa cúi mình giấu quả
Ruộng bời con gió xanh.
Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Mạ đã thò lá mới
Trên lớp bùn sếnh sang.
Cho sắc mặt mùa vàng
Đất quê mình thịnh vợng
Những gì ta gửi gắm 
Sắp vàng hoe bốn bên.
Hạt phù sa rất quen
Sao mà nh cổ tích
Mấy cô coi máy nước 
Mắt dài nh dao cau.
ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt 
Bồi cho mùa phôi thai.
Nắng thu đang trải đầy 
Đã trăng non múi bởi
Bên cầu con nghé đợi 
Cả chiều thu sang sông.
 (Tháng 10 năm 1973)
Chuyờn đề 3- Phần văn học trung đại
Buổi 5 Ngày dạy: 7/10/2013
A. Mục tiêu: 
- Củng cố một số kiến thức văn học trung đại được học ở lớp dưới, hệ thống kiến thức văn học trong suốt một nghìn năm lịch sử thời phong kiến.
- Khắc sâu kiến thức về tình hình xã hội và tình hình văn học từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX.
- Hiểu được nội dung, nghệ thuật các tác phẩm văn học trung đại được học trong chương trình.
- Từ đó vận dụng kiến thức để làm văn.
B. Nội dung: 
I. Tổng quan về văn học trung đại Việt Nam.
1. Khái quát về tình hình xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX. (Nhấn mạnh hơn ở thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX)
2. Khái quát tiến trình phát triển của văn học trung đại VN
3. Giới thiệu một số chủ đề chính của văn học trung đại VN: 
- Chủ nghĩa yêu nước.
- Chủ nghĩa nhân đạo.
4. Đặc điểm thi pháp của văn học trung đại VN (những biểu hiện cụ thể trong văn học từ thế kỉ XVI đén thế kỉ XIX)
II. Tác giả Nguyễn Dữ và “Chuyện ngưòi con gái Nam Xương“.
1. Các kiến thức cơ bản về tác giả và tác phẩm.
2. Bổ sung kiến thức về tập “Truyền kì mạn lục“.
3. Nhấn mạnh giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
4. Một số vườn đề cảm nhận và nghị luận về tác phẩm: 
- Giá trị nhân đạo của truyện.
- Người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua cuộc đời và số phận nhân vật Vũ Nương.
- ý nghĩa của chi tiết cái bóng.
- ý nghĩa của các yếu tố kì lạ.
- Các lời đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện
5. Một số bài tập tham khảo: 
Đề 1: Trong bài thơ “Lại viếng bài Vũ Thị” tác giả Lê Thánh Tông có viết: 
 “Qua đây bàn bạc mà chơi vậy.
 Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”.
Hãy cắt nghĩa các nguyên nhân gây nên cái chết oan khiê

File đính kèm:

  • docgiao_an_boi_duong_hsg_ngu_van_9.doc