Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”

TÓM TẮT SÁNG KIẾN

Sáng kiến Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” được nghiên cứu và áp dụng đối với học sinh lớp 6C năm học 2016 – 2017 dựa trên những cơ sở sau:

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:

Những hoàn cảnh cụ thể để sáng kiến nảy sinh là: cấu tạo chung của chương trình Ngữ văn THCS và cấu tạo chương trình Ngữ Văn lớp 6. Một mặt chương trình được biên soạn theo cấu trúc vòng tròn đồng tâm không khép kín, một mặt chương trình Văn 6 có những văn bản cùng đề tài, dễ nhầm lẫn về thể loại. Hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” nằm trong nhóm ấy.

Một hoàn cảnh khác để sáng kiến được hình thành là thực tiễn giảng dạy Văn 6 nói chung, hai văn bản này nói riêng của giáo viên. Đa số giáo viên lúng túng, dạy theo kiểu thanh toán giáo án hoặc không phân biệt được sự khác biệt giữa hai văn bản. Học sinh vì thế cũng ngại học văn

 

doc 43 trang phuongnguyen 26/07/2022 21300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”

Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn: Giảng dạy Ngữ văn 6 theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
3. Tác giả: 
Họ và tên: Nguyễn Thị Phương Loan Nữ
Sinh ngày 04 tháng 05 năm 1980
Trình độ chuyên môn: Đại Học Văn.
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng tổ KHXH trường THCS Tân Hương – Ninh Giang – Hải Dương.
Điện thoại: 0972 386 580
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: trường THCS Tân Hương.
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: học sinh lớp 6C trường THCS Tân Hương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên: + Chuẩn bị: Giáo án, Máy chiếu, sách giáo khoa, màu vẽ, giấy vẽ.
 + Tổ chức phối hợp nhuần nhuyễn trong giờ học; Khích lệ học sinh.
 + Phối hợp với đoàn đội và giáo viên chủ nhiệm.
- Học sinh: + Soạn bài đầy đủ.
 + Vận dụng kiến thức liên môn: Mỹ thuật, Công Nghệ.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: năm học 2016 – 2017.
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Sáng kiến Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” được nghiên cứu và áp dụng đối với học sinh lớp 6C năm học 2016 – 2017 dựa trên những cơ sở sau:
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Những hoàn cảnh cụ thể để sáng kiến nảy sinh là: cấu tạo chung của chương trình Ngữ văn THCS và cấu tạo chương trình Ngữ Văn lớp 6. Một mặt chương trình được biên soạn theo cấu trúc vòng tròn đồng tâm không khép kín, một mặt chương trình Văn 6 có những văn bản cùng đề tài, dễ nhầm lẫn về thể loại. Hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” nằm trong nhóm ấy.
Một hoàn cảnh khác để sáng kiến được hình thành là thực tiễn giảng dạy Văn 6 nói chung, hai văn bản này nói riêng của giáo viên. Đa số giáo viên lúng túng, dạy theo kiểu thanh toán giáo án hoặc không phân biệt được sự khác biệt giữa hai văn bản. Học sinh vì thế cũng ngại học văn.
2. Cơ sở lý luận:
Sáng kiến được hình thành dựa trên những mục tiêu giáo dục hiện hành: dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh của nhà nước.
Dựa trên các đặc điểm của truyện ngắn (nhân vật, sự việc, cốt truyện, ngôi kể), sự khác biệt giữa truyện dân gian và truyện hiện đại.
3. Thực trạng của vấn đề:
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn từ giáo viên và học sinh cho thấy chất lượng dạy và học Văn 6 nói chung và hai văn bản này nói riêng chưa cao và chưa có chiều sâu.
4. Các giải pháp:
Trong sáng kiến đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên”:
4.1. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh thông qua tìm hiểu đặc trưng thể loại.
	4.2. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh thông qua tìm hiểu ngôi kể, vai trò của ngôi kể:
4.3. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh thông qua tìm hiểu tình huống truyện:
4.4. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh thông qua tìm hiểu bố cục và nhân vật trong truyện:
4.5. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh sáng tạo, phát huy năng khiếu cho các em.
Các giải pháp đưa ra đều có ví dụ minh họa cụ thể ở từng văn bản. Trong đó, sáng kiến thể hiện rõ tính mới ở các khâu như:
Phát triển năng lực ngôn ngữ, tư duy, nhận xét cho học sinh bằng cách quan sát hình ảnh, đóng kịch, nhập vai ngay trong giờ học.
Khắc sâu bài học, phát triển các năng lực giao tiếp, ứng xửcho học sinh bằng các hoạt động ngoại khóa
Khắc sâu đặc trưng thể loại, cảm nhận giá trị đắc sắc của ngôn từ, nghệ thuật miêu tả bằng cách so sánh đối chiếu, tưởng tượng giữa hai nhân vật, hai văn bản.
Thường xuyên tích hợp các năng lực nghe – đọc – hiểu – nói - viết cho học sinh.
Sáng kiến hướng tới mục tiêu lâu dài là hình thành và phát triển năng lực học văn, ứng dụng văn vào đời sống cho học sinh.
Đánh giá sự tiến bộ của học sinh qua nhiều phương diện: xử lý tình huống, kể chuyện, đóng kịch, vẽ tranh chứ không đánh giá ở một phương diện là làm bài kiểm tra.
5. Kết quả đạt được:
Kết quả của sáng kiến được đánh giá dựa trên các căn cứ:
+ Bài kiểm tra khảo sát của học sinh.
+ Các hoạt động ngoại khóa.
+ Các sản phẩm sáng tạo: tranh, thơ, truyện
6. Điều kiện để nhân rộng sáng kiến:
Trên cơ sở thực tế, sáng kiến có thể nhân rộng ở các khối lớp 6,7,8,9; với nhiều đối tượng học sinh và trong nhiều năm học liền kề.
Sáng kiến này cũng có thể áp dụng một số giải pháp cho các phân môn: Lịch sử, Địa Lý, Sinh học, Công nghệ.
Tuy nhiên để sáng kiến được nhân rộng thì cần có sự phối kết hợp từ nhiều phía: nhà trường – giáo viên – học sinh. Đó là những điều kiện tiên quyết để sáng kiến được nhân rộng.
7. Kết luận và khuyến nghị:
Trong sáng kiến cũng đề xuất cụ thể những kết luận về bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình nghiên cứu với bản thân và bạn bè đồng nghiệp. Đồng thời đưa ra một số khuyến nghị với các cấp để sáng kiến được nhân rộng.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Phần Văn bản trong chương trình Ngữ văn 6 THCS bao gồm văn học dân gian và văn học viết. Ở học kì 1 các em được tìm hiểu các truyện dân gian thuộc nhiều thể loại như: truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười Đây là những câu chuyện gần gũi với lứa tuổi học sinh, nhất là lớp 6 nên việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khắc sâu kiến thức cũng như tích hợp, định hướng phát triển năng lực và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, cuối học kì 1 và sang học kì 2 các em được làm quen với nhiều truyện hiện đại thuộc dòng văn học viết có dung lượng dài, kết cấu phức tạp hơn nên việc hương dẫn tìm hiểu văn bản gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Cụ thể như học sinh lúng túng khi tìm văn liệu, phát hiện và đánh giá nghệ thuật kể chuyện rút ra nhận xét, so sánh, tích hợp.. 
Trong chương trình có 2 văn bản mà phương pháp kể chuyện, cách xây dựng nhân vật cũng như bài học nhận thức và hành động tương tự giống nhau là truyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” (Trích “Dế mèn phiêu lưu kí” – Tô Hoài). Khi tìm hiểu 2 văn bản này, nhiều học sinh nhầm lẫn “Bài học đường đời đầu tiên” là truyện ngụ ngôn vì có nhân vật là loài vật và cũng rút ra bài học giống như “Ếch ngồi đáy giếng”. Việc dẫn dắt tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện và rút ra bài học cho học sinh lớp 6 ở 2 tác phẩm này cũng khó khăn vì các em chưa có một kĩ năng nào trong việc tìm hiểu một văn bản truyện.
Trong khi đó, không ít giáo viên khi dạy văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” không biết nói gì, khai thác gì cho hết giờ vì văn bản ngắn. Một số giáo viên chọn giải pháp tập trung rèn kĩ năng đọc, kể tóm tắt, nhận xét lẫn nhau là chính. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu không ít giáo viên cứ luẩn quẩn ở chi tiết “Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bằng cái vung và nó oai như một vị chúa tể” mà không gợi dẫn cho học sinh đến mối quan hệ giữa nhận thức, suy nghĩ và môi trường sống, thái độ sống. Bài học vì thế mà nặng nề, đơn điệu, nhàm chán. Kết thúc văn bản hầu hết các giờ dạy mới chỉ dừng ở việc cho học sinh tìm hiểu những câu thành ngữ có nội dung tương tự như văn bản mà chưa chú ý khơi nguồn, phát huy những khả năng sáng tạo khác của các em, cũng như định hướng phát triển năng lực giao tiếp, năng lực xử lý tình huống, hay đơn thuần là năng lực tìm hiểu truyện. Ngược lại khi dạy văn bản “Bài học đường đời đầu tiên” nhiều giáo viên “cháy” giáo án, biến giờ học thành tiết lên án tố cáo Dế Mèn, không phân biệt được điểm khác biệt giữa hai văn bản cho học sinh. 
Với đối tượng học sinh lớp 6, các em mới chỉ được làm quen với cách đọc – kể chuyện ở Tiểu học, mà phần lớn là truyện dân gian nên việc hình thành cho các em những kĩ năng cơ bản trong cách tiếp cận tác phẩm truyện là cần thiết. Đây là kĩ năng quan trọng theo sát các em trong cả chương trình học THCS và sau này. Tuy nhiên cấu trúc chương trình không có một bài học cụ thể riêng biệt nào dành cho các em. Đến cuối học kì 2 lớp 9 các em mới được học kiểu bài nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích). Đây là một khó khăn trở ngại đối với không ít giáo viên và học sinh trong dạy học văn ở THCS. Đây cũng là lứa tuổi mới lớn, các em đang trên con đường hình thành và phát triển nhân cách, thế giới trong mắt các em cũng mở rộng dần, tuy nhiên sự hiểu biết và suy nghĩ cũng như nhận thức đôi khi còn non nớt, bồng bột. Vì thế việc định hướng những năng lực cơ bản như ứng xử với mọi người xung quanh, với bản thân là điều rất quan trọng. Và 2 văn bản “Ếch ngồi đáy giếng”, “Bài học đường đời đầu tiên” đều đáp ứng được những yêu cầu đó. Tuy nhiên để tổ chức sao cho có chiều sâu và bài học đến với các em một cách tự nhiên, phù hợp với nhận thức của học sinh lớp 6 lại là một điều khó khăn.
Học sinh thường có cảm giác nặng nề, ngại ngần khi vào giờ văn. Với học sinh lớp 6, vốn từ, vốn hiểu biết còn hạn hẹp nên tạo hứng thú học văn, từ giờ học văn mà định hướng phát triển các năng lực khác, khơi nguồn tư duy sáng tạo của các em là mục tiêu lớn nhưng đầy thử thách. Tuy nhiên, với những người làm giáo dục chân chính, đặc biệt là giáo viên dạy Ngữ Văn có trách nhiệm thì mỗi chúng ta đều không thể bỏ qua mục tiêu này.
Từ những cơ sở thực tiễn trên tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến: Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” nhằm định hướng và nâng cao năng lực tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm truyện, năng lực giao tiếp, năng lực ứng xử, năng lực tự học cho học sinh lớp 6, phát huy những khả năng sáng tạo, năng khiếu tiềm tàng của các em, làm cơ sở để các em học tốt môn Ngữ văn hơn ở các lớp trên, tạo nền tảng tốt cho việc nâng cao chất lượng dạy học văn, tham gia thi học sinh giỏi các cấp và thi THPT sau này.
2. Cơ sơ lý luận của vấn đề:
2.1. Mục tiêu của môn Ngữ Văn cấp THCS:
2.1.1. Mục tiêu khái quát:
Chương trình Ngữ văn THCS đã nêu lên mục tiêu khái quát: “Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục THCS, góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở. Biết quý trọng gia đình, bạn bè. Có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng. Các em biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu. Biết tự tu dưỡng bản thân, rèn tính tự lập, có tư duy sáng tạo. Biết cảm nhận giá trị chân thiện mỹ trong nghệ thuật, trong văn học. Có năng lực thực hành và tư duy sáng tạo”.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể.
Môn Ngữ văn THCS tập trung phát triển các năng lực đặc thù của học sinh như: năng lực giao tiếp, năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác. Đặc biệt môn Ngữ Văn góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực thẩm mĩ của học sinh, hướng học sinh tới những giá trị chân chính của cuộc sống thông qua khả năng cảm thụ văn học, tiếp cận các tác phẩm văn chương. Những năng lực này rất cần thiết cho các em trên con đường hình thành, phát triển nhân cách và định hướng tương lai. Cụ thể với học sinh lớp 6 như sau:
+ Hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ: thông qua đọc, viết, nghe, nói học sinh dần bổ sung, phát triển vốn từ, cách diễn đạt, đặt câu, lập luận cũng như giao tiếp hàng ngày.
+ Năng lực tư duy: như tái hiện, sắp xếp sự việc, tưởng tượng, sáng tạo, liên tưởng, suy luận, nhận xét đánh giá và liên hệ vấn đề.thông qua các tiết học tìm hiểu văn bản, các giờ tập làm văn
+ Năng lực tự học: qua mỗi giờ học Ngữ Văn, ngoài việc giúp học sinh nắm chắc kiến thức trọng tâm và rèn kĩ năng, giáo viên cần chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tự học. Đây là khâu căn bản nhất đối với người học vì nhu cầu học tập là nhu cầu thường xuyên, lâu dài. Từ đây các em có thể học tốt hơn môn Ngữ văn, đặc biệt là dạng bài nghị luận truyện ở lớp 9.
+ Năng lực giao tiếp: cuộc sống là tổng hòa các mối quan hệ. Môi trường giao tiếp đầu tiên của học sinh là gia đình – nhà trường – làng xóm. Đây là môi trường gần gũi và quen thuộc đồng thời cũng là nền tảng để các em bước vào đời. Đối với học sinh lớp 6, việc hình thành năng lực giao tiếp, ứng xử sao cho có văn hóa: lễ phép, khiêm tốn, đoàn kết, sống nề nếp, khoa học, luôn có ý thức học hỏi, mở mang hiểu biết, kính yêu cha mẹ, thầy cô, yêu Tổ Quốc. là điều quan trọng. Nói như nhà thơ Y Phương thì đó là “gốc rễ” để mỗi chúng ta bám vào, vươn lên. Thông qua các văn bản nghệ thuật đặc sắc trong chương trình học sinh sẽ học được lối sống đẹp, cách ứng xử văn minh lịch thiệp, giao tiếp linh hoạt, mạnh dạn, tự tin và khiêm tốn.
+ Năng lực sáng tạo: khả năng sáng tạo của học sinh là vô cùng lớn. Không ít học sinh có nhiều năng khiếu bẩm sinh như Hội họa, Âm nhạc, Thơ ca Chương trình Ngữ văn 6 với nhiều tác phẩm hay, phù hợp, tích hợp chặt chẽ với phần Tập làm văn đã gợi ý để người dạy có thể khơi nguốn sáng tạo, khả năng tìm tòi khám phá của các em như: tưởng tượng để vẽ, để viết lại phần kết, để làm thơ
+ Năng lực tự quản lý bản thân: Mỗi câu chuyện là một bài học, mỗi tác phẩm thơ là một thông điệp đến cuộc đời. Ở lứa tuổi mới lớn, các em đôi khi chưa phân biệt được tốt – xấu, đúng – sai; hành động còn xốc nổi, mang tính bản năng. Những tác phẩm trong chương trình sẽ giúp các em nhìn lại mình, tự xem xét bản thân để điều chỉnh hành vi, lời nói sao cho đúng, cũng như tránh những sai lầm lần sau.
Như vậy, biết cách tìm hiểu, đánh giá một tác phẩm truyện, từ một tác phẩm truyện biết tư duy mở rộng có chiều sâu, biết tưởng tượng sáng tạo, biết liên hệ thực tiễn và rút ra bài học cho bản thân sẽ giúp các em đạt được những mục tiêu cơ bản nói trên.
2.2 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế đã nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học của người học”.
2.2.1 Mục tiêu tổng quát.
+ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở Giáo dục - Đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
+ Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
+ Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
+ Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.
+ Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
+ Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
+ Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
 	+ Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2.2.2 Mục tiêu cụ thể
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
2.3. Định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm học 2014 – 2015 Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo quyết liệt việc đổi mới trong giảng dạy. Trong đó đề cao: Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra). Điều này được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh.
Như vậy, dạy học Ngữ văn theo chương trình định hướng phát triển năng lực hiện nay rất coi trọng phần liên hệ thực tế cuộc sống, coi trọng việc vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống nảy sinh từ chính hiện thực đời sống hàng ngày của con người, của chính học sinh. Từ đó hình thành nhân cách, tư duy và kĩ năng sống của học sinh. Đó là một định hướng giáo dục rất thiết thực, coi trọng người học và đề cao thực tiễn.
Qua đây có thể khẳng định, việc dạy học nói chung, dạy văn bản truyện với học sinh lớp 6 nói riêng phải thường xuyên đổi mới. Sáng kiến Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 qua hai văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” và “Bài học đường đời đầu tiên” là một hướng đi vừa tháo gỡ những khó khăn cho người dạy, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện đại cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
2.4. Truyện và đặc điểm của truyện:
2.4.1. Truyện và các thể loại truyện thường gặp:
- Truyện là khái niệm chỉ các tác phẩm tự sự nói chung được kể, trần thuật lại một sự kiện, một công việc, một cuộc đời. nào đó.
- Truyện là một khái niệm trừu tượng. Đối với học sinh lớp THCS nói chung, học sinh lớp 6 nói riêng, có thể lưu ý các em truyện được chia làm một số tiểu loại như sau:
+ Truyện dân gian: truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích.. (những tác phẩm truyền miệng của dân gian từ thời Hùng Vương đế khoảng thế kỉ X).
+ Truyện trung đại: Gồm nhiều thể loại: truyện viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, văn xuôi, văn vần (khoảng từ thế kỉ X đến XIX).
+ Truyện hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tính từ khoảng đầu thế kỉ XX đến nay).
2.4.2. Đặc điểm chung của truyện:
2.4.2.1. Cốt truyện:
- Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong cùng một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Thông thường trong một cốt truyện gồm 5 thành phần chính:
+ Phần trình bày: giới thiệu một cách khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện nguyên nhân nảy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Nhất thiết phải nêu hoàn cảnh xã hội của tác phẩm bởi lẽ câu chuyện nào cũng được đặt trong một bối cảnh nhất định có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của tính cách nhân vật.
+ Phần thắt nút: Phần này xuất hiện những biến cố đầu tiên trong hệ thống biến cố tạo nên xung đột của tác phẩm. Nhiệm vụ của phần này là bộc lộ trực tiếp những mâu thuẫn dồn nén tích tụ, âm ỉ từ trước, đặt nhân vật trước những thử thách để thông qua đó nhân vật thể hiện thái độ chân thực nhất, thông qua đó mà tính cách được hình thành.
+ Phần phát triển: chiếm dung lượng dài nhất, nhiều nhất và đồng thời đây cũng là phần quan trọng nhất, bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau, tính cách nhân vật chủ yếu được bộc lộ rõ nét, được xác định chắc chắn trong phần này.
+ Phần đỉnh điểm: là cao trào, bộc lộ rõ nhất xung đột của tác phẩm. Đỉnh điểm diễn ra trong một thời khắc ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật. Đến đây mâu thuẫn, xung đột đã rất căng thẳng, đòi hỏi phải giải quyết theo một chiều hướng nhất định nào đó.
+ Phần kết thúc (còn gọi là phần mở nút): giải quyết xung đột của tác phẩm một cách cụ thể. Tại đây tác giả trình bày toàn bộ xung đột của cốt truyện. Phần kết thúc cũng là phần thể hiện tài năng của nhà văn: một kết thúc hay của cốt truyện là một kết thúc giải quyết xung đột một cách tự nhiên, bất ngờ, hợp lý, phù hợp với quy luật đời sống.
Đó là 5 thành phần chính tạo nên một cốt truyện đầy đủ. Nhưng trong văn học không phải lúc nào cũng được trình bày theo thứ tự như trên và không phải bao giờ cốt truyện nào cũng có đầy đủ cả 5 thành phần trên. Tùy từng hoàn cảnh, tính cách và dụng ý nghệ thuật của tác giả mà xây dựng. 
2.4.2.2. Nhân vật:
 Nhân vật là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật có thể là con người có tên (như Tấm, Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, loài vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người. 
Nhân vật là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. 
2.4.2.3. Sự việc trong truyện:
Là những sự kiện trong câu chuyện được sắp xếp theo một trình tự hợp lý nhằm làm nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm. Có những sự việc quan trọng làm thành cốt truyện, lại có những sự việc rất nhỏ nhưng làm nên thành công lớn cho cốt truyện.
- Nhân vật là người thực hiện sự việc. Sự việc giúp nhân vật tồn tại và thể hiện tính cách.
- Không có nhân vật và sự việc thì không thể làm thành cốt truyện. 
- Cốt truyện hợp lý, hấp dẫn sẽ làm nên sức sống của nhân vật.
2.4.2.3.4. Ngôi kể:
Là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng để kể chuyện. Thường có 2 ngôi kể cụ thể:
+ Ngôi thứ nhất: người kể xưng tôi, kể chuyện của mình hoặc chuyện mình trực tiếp chứng kiến. Kể theo ngôi kể này, câu chuyện mang tính chủ quan, chân thực, dễ bộc lộ tâm tư tình cảm, đi sâu vào lòng người đọc.
+ Ngôi thứ 3: người kể không xuất hiện nhưng có mặt ở khắp mọi nơi, có thể chứng kiến mọi chuyện, hiểu hết suy nghĩ của nhân vật. Kể chuyện ở ngôi kể này đảm bảo được tính khách quan, những giá trị ngợi ca, khuyên nhủ vì thế mà nhẹ nhàng, dễ tin cậy, thuyết phục.
+ Ở một số tác phẩm, các tác giả lồng ghép 2 ngôi kể: ví dụ kể ngôi thứ nhất nhưng không kể chuyện của mình mà là chuyện của người khác. Trường hợp đó ta gọi là “chuyện trong chuyện”.
Tóm lại: Cốt truyện – Nhân vật – Sự việc – Ngôi kể là những yếu tố không thể thiếu trong một tác phẩm truyện. Đây cũng là đặc điểm cơ bản của thể loại này.
2.4.3. Phân biệt truyện hiện đại và truyện dân gian:
2.4.3.1. Truyện dân gian: 
- Thời gian hình thành và phát triển: là những tác phẩm văn học ra đời sớm nhất, từ khi chưa có chữ viết, gắn liền với đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất của nhân dân. Những tác phẩm này được tính từ thời Hùng Vương đến khoảng thế kỉ X.
- Tác giả: là tập thể những người lao động.
- Hình thức tồn tại: truyền khẩu nên có tính dị bản.
- Ngôi kể: thường kể ở ngôi thứ 3 (vì đó là tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng, ước mơ của nhân dân, của cả tập thể).
- Nhân vật: thường là những người nông dân vất vả, thiệt thòi (Thạch Sanh, Sọ Dừa) nhưng có tính cách hiền lành, thật thà.; hoặc có thể là thần linh, anh hung hào kiệt.; hoặc loài vật Những nhân vật trong truyện giai đoạn này tính cách thường đơn giản, một chiều, ít mâu thuẫn. Sự phát triển tính cách phụ thuộc vào cốt truyện và thời đại. 
Ví dụ: Thạch Sanh được giới thiệu là một chàng trai mồ côi, hiền lành thật thà và có tài võ nghệ. Chính vì thế mà từ đầu đến cuối truyện, trước những lời nói dối của Lý Thông, Thạch Sanh đã tin một cách vô điều kiện, thậm chí sau này khi được minh oan, tội ác của mẹ con Lý Thông được vạch trần, Thạch Sanh cũng tha tội chết cho họ. Như nhiều nhân vật dân gian khác, tính cách, tâm trạng Thạch Sanh phát triển đơn giản, thuần túy một chiều, không có những mâu thuẫn nội tâm, những biểu hiện trái chiều vì thế dễ phân tích.
- Cốt truyện: đơn giản, thường có kết thúc có hậu, hoặc kết thúc bất ngờ.
- Ý nghĩa: thường thể hiện tư tưởng tình cảm, ước mơ của đại bộ phận dân chúng: ở hiền gặp lành, tự hào truyền thống văn hóa dân tộc, ước mơ hòa bình, phê phán thói kiêu ngạo tự phụ.
2.4.3.2. Truyện hiện đại:
- Thời gian hình thành và phát triển: là những tác phẩm văn học ra đời và phát triển từ đầu thế kỉ XX.
- Tác giả: thường là cá nhân nhà văn, mang dấu ấn riêng, phong cách riêng.
- Hình thức tồn tại: văn học viết.
- Ngôi kể: kể ở cả ngôi thứ 3 và ngôi thứ nhất, tùy thuộc vào dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
- Nhân vật: phong phú đa dạng, đủ các tầng lớp xã hội, có tiếng nói riêng, tính cách riêng, tư tưởng tình cảm riêng. Diễn biến tâm lý nhân vật cũng đa dạng phức tạp hơn, góc cạnh hơn. Sự phát triển tính cách nhân vật giai đoạn này không phụ thuộc vào cốt truyện hay thời đại mà nó làm nên cốt truyện.
Ví dụ: Nhân vật Dế Mèn trong văn bản “Bài học đường đời đầu tiên” (trích Dế Mèn phiêu lưu ký – Tô Hoài) vừa có điểm đáng phê phán, vừa có điểm đáng học tập. Ngay trong một hành động trêu trọc chị Cốc Mèn cũng có sự phát triển tâm lý đa dạng: từ hung hăng, thách thức đến sợ hãi rồi ân hận. Đó là những trạng thái tâm lý tưởng như trái ngược nhau nhưng hoàn toàn hợp lý với một kẻ hành động xốc nổi, thiếu suy nghĩ như Mèn.
- Cốt truyện: đa dạng, phức tạp, nhiều mâu thuẫn xung đột hơn, được thể hiện dưới nhiều khía cạnh hơn.
- Ý nghĩa: là tiếng nói của riêng nhà văn được truyền đến người đọc một cách nhẹ nhàng sâu sắc.
2.4.4. So sánh truyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng” và văn bản truyện “Bài học đường đời đầu tiên”.
2.4.4.1. Điểm giống:
- Nhân vật: là loài vật (Con Ếch, con Dế Mèn).
- Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật: dùng biện pháp nhân hóa (ngôn ngữ, hành động, cách ứng xử với thế giới xung quanh):
+ Ếch: đi lại nghênh ngang, oai như một vị chúa tể, nghĩ bầu trời trên đầu chỉ bằng cái vung.
+ Dế Mèn: Co cẳng đạp phanh phách vào các ngọn cỏ, nhai ngoàm ngoạm, đưa cả hai chân lên vuốt râu., khà khịa với tất cả bà con trong xóm.
Vậy dễ dàng thấy cả hai con vật (nhân vật) này đều có thói huênh hoang, tự kiêu tự đại, coi thường xung quanh, luôn cho mình là nhất.
- Kết thúc: đều đau đớn (Ếch vì chủ quan tự phụ mà phải chết, Dế Mèn vì hung hăng hống hách mà gây ra cái chết thảm cho Dế Choắt).
- Bài học: đều khuyên mỗi chúng ta không nên kiêu ngạo, coi thường xung quanh, cần suy nghĩ, nhìn nhận trước sau kĩ càng trước khi hành động
2.4.4.2. Điểm khác:
- Ngôi kể:
+ Ếch ngồi đáy giếng: kể ngôi thứ ba.
+ “Bài học đường đờ

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_hinh_thanh_va_phat_trien_nang_luc_cho.doc