243 Đề văn nghị luận xã hội
PHẦN MỘT
KIẾN THỨC CƠ BẢN
VỀ VĂN NGHỊ LUẬN
1.Văn nghị luận (NL) là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người
nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó, muốn thế văn NL phải có các yếu tố:
Luận điểm (LĐ), luận cứ (LC) và lập luận (LL).
-LĐ là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn NL.
-LC là lí lẽ và dẫn chứng ( lí lẽ giúp người ta hiểu, dẫn chứng giúp người ta
tin ) đưa ra làm cơ sở cho LĐ.
-LL là cách lựa chọn, sắp xếp trình bày các LĐ để dẫn đến luận đề (vấn đề
cần NL); là cách lựa chọn, sắp xếp trình bày các LC để dẫn đến LĐ.
Ví dụ:
Âm nhạc là một nghệ thuật gắn bó với con người từ khi lọt lòng mẹ cho
tới khi từ biệt cuộc đời. Ngay từ lúc chào đời em bé đã được ôm ấp trong lời
ru nhẹ nhàng của người mẹ. Lớn lên với những bài hát đồng dao, trưởng
thành với những điệu hò lao động, những khúc tình ca vui buồn với biết bao
sinh hoạt nghệ thuật ca hát từ thôn xóm đến thành thị. Người Việt Nam chúng
ta cho tới lúc hết cuộc đời vẫn còn tiếng nhạc vẳng theo với những điệu hò
đưa linh hay điệu kèn đưa đám.
( Phạm Tuyên, Các bạn trẻ đến với âm nhạc,
NXB Thanh niên, 1982 )
Tóm tắt nội dung tài liệu: 243 Đề văn nghị luận xã hội
243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 1 PHẦN MỘT KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ VĂN NGHỊ LUẬN 1.Văn nghị luận (NL) là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó, muốn thế văn NL phải có các yếu tố: Luận điểm (LĐ), luận cứ (LC) và lập luận (LL). -LĐ là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn NL. -LC là lí lẽ và dẫn chứng ( lí lẽ giúp người ta hiểu, dẫn chứng giúp người ta tin ) đưa ra làm cơ sở cho LĐ. -LL là cách lựa chọn, sắp xếp trình bày các LĐ để dẫn đến luận đề (vấn đề cần NL); là cách lựa chọn, sắp xếp trình bày các LC để dẫn đến LĐ. Ví dụ: Âm nhạc là một nghệ thuật gắn bó với con người từ khi lọt lòng mẹ cho tới khi từ biệt cuộc đời. Ngay từ lúc chào đời em bé đã được ôm ấp trong lời ru nhẹ nhàng của người mẹ. Lớn lên với những bài hát đồng dao, trưởng thành với những điệu hò lao động, những khúc tình ca vui buồn với biết bao sinh hoạt nghệ thuật ca hát từ thôn xóm đến thành thị. Người Việt Nam chúng ta cho tới lúc hết cuộc đời vẫn còn tiếng nhạc vẳng theo với những điệu hò đưa linh hay điệu kèn đưa đám. ( Phạm Tuyên, Các bạn trẻ đến với âm nhạc, NXB Thanh niên, 1982 ) 2.Mối quan hệ giữa LĐ với vấn đề cần giải quyết (vấn đề cần NL) trong bài văn NL. LĐ cần phải chính xác, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu cần giải quyết vấn đề và đủ để làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 2 3.Mối quan hệ giữa các LĐ trong bài văn NL. Giữa các LĐ cần phải: -Liên kết chặt chẽ với nhau. -Có sự phân biệt rạch ròi với nhau (không được trùng lặp hoặc chồng chéo lên nhau). -Sắp xếp theo một trình tự hợp lí: LĐ nêu trước chuẩn bị làm cơ sở cho LĐ nêu sau, còn LĐ nêu sau dẫn đến LĐ kết luận. -Sắp xếp sao cho người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận: Từ cái dễ đến cái khó, từ cái quen thuộc đến cái mới lạ, từ cái ở mức độ thấp đến ở mức độ cao. Ví dụ: Văn bản nghị luận “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” – Hồ Chí Minh: -Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. -Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. -Đồng bào ta ngày nay rấy xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước; -Bổn phận của chúng ta là phải biến lòng yêu nước thành những hành động yêu nước. 4.Muốn làm được bài văn NL thì người viết phải tìm cho ra được LĐ. Song người viết còn phải tiếp tục thực hiện một bước đi rất khó khăn và quan trọng khác: trình bày những LĐ mà mình đã tìm ra (nghĩa là phải biết viết đoạn văn trình bày LĐ). Ví dụ: Trình bày LĐ “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta”: Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng. 5.Cách trình bày luận cứ LĐ có đứng vững được, có sức thuyết phục là nhờ luận cứ. Luận cứ bao gồm: Lí lẽ và dẫn chứng. a. Lí lẽ Hệ thống lí lẽ phải sắc bén, thuyết phục người đọc, bởi lí lẽ đưa ra được xem như là chân lí (có lí, có tình), được mọi người công nhận. Nghĩa là lí lẽ là những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận, nêu ra là đồng tình. Các lí lẽ phải 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 3 liên kết khăng khít – lí lẽ trước gợi mở ra lí lẽ tiếp theo, lí lẽ sau kế thừa và phát triển lí lẽ trước theo một thứ tự hợp lí, không thể bác bỏ. Lí lẽ nên trình bày bằng những lời văn giản dị, dễ hiểu. Ví dụ: Con người cần phải khiêm tốn. Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi. (Dựa theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế) b.Dẫn chứng (DC) DC có thể là những con người, sự vật, sự việc, tục ngữ, danh ngôn, câu văn, câu thơ, câu chuyện, những lời nhận xét đánh giá... lấy từ trong sử sách hay trong cuộc sống mà người viết đưa vào bài làm nhằm chứng minh, giải thích, phân tích, bình giá cho một LĐ. Các cụ xưa có câu “Nói có sách, mách có chứng”, còn Gam-za-tốp thì lại nói “Kẻ ngu si làm kinh ngạc bằng tiếng gào, người thông minh làm kinh ngạc bằng những câu tục ngữ dẫn ra đúng chỗ”. Bài văn có sức sống, lí lẽ trở nên sắc sảo, có sức thuyết phục là nhờ DC. Vì vậy, trong một bài văn hoặc đoạn văn NL không thể không chú ý tới DC trong quá trình viết. DC cần chọn lọc, tiêu biểu. Ví dụ 1: Tình thương tạo nên vẻ đẹp trong cuộc sống. Cuộc sống sẽ có ý nghĩa nhân lên gấp bội phần, không cảm thấy cô đơn hay tẻ nhạt, niềm vui nhân đôi và nỗi buồn vơi đi một nữa. Nó sẽ là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn, tạo thêm nghị lực vươn lên trong đời. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu cho những ai lầm đường lạc lối: Từ con người chưa tốt thành con người tốt; từ sai lầm, bị cám dỗ đến hướng thiện; từ ích kỉ trở nên vị tha, bao dung; từ tuyệt vọng đến lấy lại hi vọng, hồi sinh. Các em hãy còn nhớ: Tình thương của cụ họa sĩ già Bơ-men dành cho Giôn-xi (truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri ) làm cho Giôn- xi từ chỗ muốn chết đến chỗ thấy chết là một tội. Hay, tình yêu cùng bát cháo hành của Thị Nở đã làm cho Chí Phèo khao khát được lương thiện (truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao). Đoạn văn trên, LĐ là câu thứ nhất ; lí lẽ là câu thứ 2, 3, 4 ; dẫn chứng là câu 5, 6. Ví dụ 2: 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 4 Tình thương là bản chất tốt đẹp vốn có tự nhiên, tự nguyện của con người: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Đó là sự chăm sóc, hi sinh thầm lặng của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu: “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”, “Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”... Sự kính trọng, biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ: Có một cậu bé cùng mẹ ngồi xem cuộc thi hoa hậu. Cậu bé đã hỏi mẹ: “Mẹ ơi, hoa hậu là gì hả mẹ?”. Mẹ nói: “Hoa hậu là người phụ nữ đẹp nhất và tốt nhất”. Vậy là em nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao mẹ không đi thi ạ?”. Ánh mắt của mẹ lúc ấy tràn ngập hạnh phúc. Mẹ đâu cần hoa hậu của cuộc thi sắc đẹp nữa, bởi mẹ đã là nữ hoàng trong trái tim con trai yêu của mẹ rồi. Đó là sự kính trọng, ghi ơn của học trò đối với thầy: “Nhất tự vi sự bán tự vi sư”, “Tôn sư trọng đạo”... Đó là sự nhường nhịn, giúp đỡ giữa anh chị em: “Máu chảy ruột mềm”, “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể tay chân / Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”... Sự đùm bọc, cưu mang giữa những người họ hàng: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Đó còn là sự đồng cảm, xót thương chân thành, sâu sắc đồng bào, đồng loại – những người có số phận đau khổ, bất hạnh: “Thương người như thể thương thân”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Lá lành đùm lá rách”, “ Bầu ơi thương lấy bí cùng”, Trong truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của nhà văn Thạch Lam, hai chị em Sơn và Lan thương bạn Hiên - nhà nghèo, ngày rét mà không có áo lành – giấu mẹ mang áo bông cũ tặng bạn. 6.Một số cách lập luận thường gặp trong văn NL a.Diễn dịch Diễn dịch là cách trình bày đi từ ý khái quát (câu CĐ nêu LĐ) đến các ý chi tiết, cụ thể (các LC) làm sáng tỏ ý khái quát đó. Câu mang nội dung khái quát (LĐ) đứng ở đầu ĐV. Ví dụ: (Xem đoạn văn trên đây – mục 5). b.Quy nạp Quy nạp là cách LL ngược với diễn dịch. Quy nạp là cách trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể (các LC) rồi rút ra ý khái quát (LĐ). Câu chủ đề (câu nêu LĐ) đứng ở cuối ĐV. Ví dụ: Nhân dân ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn luôn đề cao vai trò của người thầy trong cuộc sống mỗi người. Câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên” đã khẳng định mạnh mẽ vai trò đó của người thầy. Mỗi người trong đời, nếu không có một người hiểu biết, giàu kinh nghiệm truyền thụ, dìu dắt thì 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 5 khó mà làm nên một việc gì xứng đáng, dù đó là nghề nông, nghề rèn, nghề khắc chạm, hoặc nghiên cứu khoa học. Do đó trong cuộc đời mỗi người, học ở thầy là quan trọng nhất. c.Lập luận nêu nghi vấn Nêu nghi vấn tức là LL theo cách nêu câu hỏi để tự trả lời hoặc để người đọc tự trả lời. Ví dụ: Tại sao con người phải sống thương yêu nhau? Bởi lẽ, một điều thật dễ hiểu, người dân sống trong một nước, hoặc trên trái đất tuy khác màu da, chủng tộc,ngôn ngữ,... nhưng đều là con người với nhau, đều có mối quan hệ khăng khít về vật chất và tình cảm. Sống trên đời, không ai giống ai. Môi người có một nguồn gốc, hoàn cảnh, điều kiện sống riêng. Tuy vậy, người ta vẫn có những chô giống nhau. Anh em ruột có chung ông bà, cha mẹ. Bạn bè cùng chung trường, lớp, chung thầy cô, chung sách vở. Hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại. Lúc giàu, lúc khó khăn thì gần gũi, chia nhau, cảm thông. d.Lập luận so sánh (tương đồng, tương phản) Ví dụ 1: Cuộc đời và tính cách người nông dân trong xã hội cũ qua “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố) và “Lão Hạc” (Nam Cao) có điểm chung và điểm riêng. Các tác phẩm này cho người đọc hiểu như thế nào về tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của tầng lớp nông dân bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Từ các tác phẩm này, chúng ta được thấy vẻ đẹp tâm hồn cao quý, lòng tận tuỵ hi sinh vì người thân của người nông dân như thế nào. Song, mỗi tác phẩm thể hiện đặc điểm, vẻ đẹp riêng của từng nhân vật. Chị Dậu trong “Tắt đèn” là sức mạnh của tình thương, của tiềm năng phản kháng. Lão Hạc trong “Lão Hạc” là ý thức về nhân cách, là lòng tự trọng dù nghèo khổ. Ví dụ 2: Câu tục ngữ được lưu truyền lại qua nhiều thế hệ đã khẳng định truyền thống cao quý trong đạo làm người của dân tộc ta. Đó chính là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết để chúng ta lần lượt đánh thắng thù trong giặc ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần đánh giá đúng tinh thần của câu “lá lành đùm lá rách”. Giúp đỡ người yếu đuối, khó khăn là bổn phận cần thiết nhưng hành động ấy không được xuất phát từ động cơ cá nhân, không phải lối ban ơn trịch thượng mà phải bắt nguồn từ tình cảm chân thành yêu thương, thông cảm giữa người và người. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 6 e.Lập luận nêu phản đề, nêu giả thiết Đây là LL nêu ra một luận điểm giả định và phát triển nó cho đến cùng để chứng tỏ đó là luận điểm sai và từ đó mà khẳng định luận điểm của mình. Nêu phản đề, nêu giả thiết là cách LL lật ngược vấn đề để xem xét. Ví dụ 1: Nếu (giả sử) thế giới không có tình thương thì thế giới sẽ mờ đen, trái tim khô cứng. “Nơi lạnh nhất.” (M.Gorki). Ví dụ 2: Nếu không có mấy câu thơ kết thúc này (“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ ()/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – MVN ), ta không biết “Quê hương” được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi. Những hình ảnh của quê hương trên kia đã trở thành kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha thành thực của Tế Hanh. ( Lê Quang Hưng, “Tinh hoa Thơ mới- thẩm bình và suy ngẫm”, NXB GD, Hà Nội, 2001 ) g.Lập luận nhân - quả Vì / do / tại / bởi nên / cho nên / mà Ví dụ 1: Câu chuyện ( Chuyện người con gái Nam Xương – MVN ) lẽ ra chấm dứt ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế mới có đoạn hai, kể chuyện nàng Vũ xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa. ( Nguyễn Đình Thi ) Ví dụ 2: Như vậy, trong cuộc sống, không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên. Chính vì thế, trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam luôn có những lời thấm thía nhắc nhở ta về lòng biết ơn với nguồn gốc, với công lao của những người đi trước: - Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. -Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. -Không thầy đố mày làm nên. h.Song hành Song hành là cách LL ý giữa các câu ngang nhau (các câu đều là LC), không có câu chủ đề (không có câu nào là câu nêu lên LĐ). LĐ được rút ra từ việc khái quát tất cả các câu trong ĐV. Ví dụ: 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 7 Nước của Ông là nước Đại Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Nước của Ông là một lãnh thổ riêng biệt với “cõi bờ, sông núi đã chia” và “phong tục Bắc Nam cũng khác”. Nước của Ông là một nước có nền chính trị riêng biệt đã “cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương”. Nước của Ông là một đỉnh cao trí tuệ, tài năng với những “hào kiệt đời nào cũng có”. (Vũ Khiêu, dẫn theo Trần Thanh Đạm – Làm văn 10) Đoạn văn trên gồm 4 câu, môi câu trình bày một khía cạnh ý nghĩa của khái niệm “Nước” theo Nguyễn Trãi trong bài “Bình Ngô đại cáo”. Bốn câu có quan hệ đẳng lập với nhau. Không có câu nào biểu đạt ý chính của toàn đoạn để trở thành câu chủ đề. Ý chính (LĐ) của toàn đoạn chỉ được hiểu ngầm qua việc tổng hợp ý của các câu lại: Nguyễn Trãi khi viết “Bình Ngô đại cáo”, đã nhận thức rõ ràng, đầy đủ về khái niệm đất nước, quốc gia. i.Móc xích Móc xích là cách sắp xếp ý nọ tiếp nối ý kia theo lối ý sau móc nối vào ý trước (qua những từ ngữ cụ thể, lặp lại) để bổ sung, giải thích cho ý trước. ĐV thuộc kiểu trình bày này có thể có hoặc không có câu chủ đề. Ví dụ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật thì phải có văn hoá. Vậy việc bố trí văn hoá là cực kì cần thiết. ( Hồ Chí Minh ) 7.Một bài văn nghị luận có sức thuyết phục, lay động lòng người: Lí (sắc bén) + Tình (thiết tha). Lưu ý, việc đưa các yếu tố biểu cảm, kể, miêu tả, thuyết minh vào bài văn nghị luận là để cho văn nghị luận hay hơn, sinh động hơn; song, các yếu tố này chỉ là hô trợ cho sự nghị luận (không phá vỡ mạch nghị luận), nghị luận vẫn là chính. Đặc biệt, bài làm cần đưa ra ý kiến, suy nghĩ và cảm thụ riêng của người viết, dù là nhỏ bé nhưng là cái tinh túy, cao đẹp của chính mình – một nốt trầm xao xuyến. Sẽ là rất chán và tẻ nhạt khi đọc cả một bài văn mà không có một sự sáng tạo. 8.Cách trình bày bố cục một bài văn nghị luận a.Mở bài:Một đoạn văn. -Dẫn dắt vào đề. -Nêu vấn đề cần nghị luận. b.Thân bài : Gồm một số đoạn văn, môi đoạn văn trình bày một luận điểm. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 8 *Luận điểm 1 : -Luận cứ 1 : +Lí lẽ +Dẫn chứng -Luận cứ 2 : +Lí lẽ +Dẫn chứng -Luận cứ 3 : ... *Luận điểm 2 : -Luận cứ 1 : +Lí lẽ +Dẫn chứng -Luận cứ 2 : +Lí lẽ +Dẫn chứng -Luận cứ 3 : ... *Luận điểm 3 ... c.Kết bài :Một đoạn văn -Khẳng định lại vấn đề ; -Mở ra triển vọng trong tương lai. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 9 Mô hình của bố cục một bài văn nghị luận: 9.Dàn ý chung của một số dạng nghị luận xã hội Nội dung cần nghị luận của loại NL xã hội: Nêu rõ được vấn đề cần nghị luận; giải thích vấn đề cần nghị luận (nếu cần); nêu các biểu hiện; phân tích, đánh giá các mặt đúng – sai, lợi - hại, tốt - xấu, hay - dở; chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, kết quả (hậu quả) và bày tỏ thái độ đồng tình, biểu dương hay lên án, phê phán; xây dựng thái độ và hành động đúng. 9.1. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống Ví dụ: Tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Chất độc màu da cam của đế quốc Mĩ rải xuống Việt Nam.Trò chơi điện tử. Lối học thụ động, học vẹt. Vô lễ với thầy cô. Hiện tượng nói tục trong học sinh. Hiện tượng vứt rác bừa bãi a.Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề. b.Thân bài: -Thực trạng. - Nguyên nhân. -Kết quả, hậu quả. -Biện pháp khắc phục. Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề) thường là một đoạn văn, khởi đầu bằng một ý tổng quát rồi thu hẹp dần đến việc giới thiệu vấn đề cần nghị luận. Mở bài cần ngắn gọn, gây ấn tượng, tạo hứng thú cho người đọc (người nghe). Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn đề) thường gồm một số đoạn văn, môi đoạn văn triển khai một luận điểm. Các luận điểm đều tập trung làm nổi bật luận đề (vấn đề cần nghị luận). Giữa các đoạn tiếp nối, liên kết hữu cơ với nhau, xoay quanh chủ đề chung của bài văn (yêu cầu này không riêng gì phần thân bài mà là yêu cầu của cả bài: Mở-Thân-Kết). Kết bài (kết thúc vấn đề) thường là một ĐV, xuất phát từ một ý hẹp tóm tắt lại vấn đề đã NL, đồng thời mở ra triển vọng áp dụng, liên hệ thực tế... của vấn đề vào cuộc sống. Kết bài hay, có thể tạo ra “âm vang”, “dư ba” cho bài văn. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 10 -Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động. c.Kết bài: Kết luận, khẳng định, phủ định, lời khuyên. 9.2. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí Ví dụ: Thời gian là vàng. Tôn sư trọng đạo. Tri thức là sức mạnh. Sức mạnh của đoàn kết. Lòng biết ơn thầy cô. “Công cha như núi Thái Sơn”.Tình bạn đẹp. “Uống nước nhớ nguồn”. Đức tính khiêm tốn. “Có chí thì nên”. Tinh thần tự học a.Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận. b.Thân bài: -Giải thích. -Phân tích, chứng minh (trả lời câu hỏi : Tại sao ? Vì sao ?). -Bình luận, đánh giá (ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế...). -Bài học nhận thức và hành động. c.Kết bài: Kết luận, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc hành động. 9.3.Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học a.Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận. b.Thân bài: -Giới thiệu và phân tích. -Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm c.Kết bài: Khẳng định lại vấn đề, mở ra suy nghĩ, hành động trong tương lai. 10. Các thao tác lập luận thường gặp trong bài văn nghị luận. a. Chứng minh: Dùng những lí lẽ và dẫn chứng (DC) để làm sáng tỏ vấn đề đó là đúng, là đáng tin cậy. (DC là chính, có kết hợp với lí lẽ). b. Giải thích: Dùng lí lẽ và DC để giúp người đọc hiểu rõ vấn đề. (Dùng lí lẽ là chính, có kết hợp với DC). c. Bình luận: Bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề nào đó, đánh giá xem vấn đề đó đúng hay sai, có ý nghĩa quan trọng như thế nào, đề xuất thái độ và biện pháp để giải quyết tốt vấn đề. d. Phân tích: Chia vấn đề ra thành các mặt, các bộ phận, các phương diện để xem xét. Lưu ý: Một bài văn nghị luận thường phối hợp nhiều thao tác lập luận. 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 11 PHẦN HAI THỰC HÀNH NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Đề 1 : Tình thương là hạnh phúc của con người. A.Mở bài -Dẫn dắt vào đề. -Nêu vấn đề cần NL: Chỉ có tình thương yêu mới có khả năng mang lại hạnh phúc cho con người. Tham khảo: Cách 1: Bạn đã bao giờ chứng kiến cảnh một người đối xử vô tâm trước một cụ già chống gậy xin ăn, một em bé lang thang ngoài đường xó chợ chưa? Thật là buồn và thất vọng phải không các bạn? Sao cuộc sống này vẫn còn một số kẻ quên đi “Tình thương là hạnh phúc của con người”? Cách 2: Kể một câu chuyện chứng kiến cảnh một người giúp đỡ một người -> cảm động -> Tình thương là chân lí vĩnh hằng của cuộc sống. Cách 3: Giả sử cuộc sống này thiếu đi tình thương giữa người với người thì sẽ trở nên như thế nào? Hạnh phúc hay bất hạnh? Cách 4: Tố Hữu đã từng nói “Người với người sống để yêu nhau”. Bạn sẽ nghĩ như thế nào khi trên trái đất này không có tình yêu thương của nhân loại? Lúc ấy lòng người sẽ lạnh lẽo và trái tim dường như trở thành băng giá. Thật thấm thía khi ai đó nói rằng: “Tình thương là hạnh phúc của con người”. B.Thân bài 1.Giải thích khái niệm (từ ngữ) 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 12 -“Tình thương” là một phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người. Đó là tình cảm thương yêu, chia sẻ và đùm bọc một cách thắm thiết. -“Hạnh phúc”: Trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. -“Tình thương là hạnh phúc của con người”: Tình cảm yêu thương sẽ đem đến niềm sung sướng cho con người. Thực chất ở đây là nói về tác dụng của tình thương đối với đời sống con người. 2.Bình luận và phân tích a.Con người tuy khác màu da, chủng tộc, ngôn ngữ... nhưng đều là đồng loại của nhau (đều là con người), đều có mối quan hệ khăng khít về rất nhiều phương diện (vật chất và tinh thần). Nói một cách khác, sống trên đời, không ai giống ai. Môi người môi số phận riêng, môi hoàn cảnh riêng. Có người giàu người khổ, có người hạnh phúc lại có người chẳng may bất hạnh. Tuy vậy, người ta đều bắt gặp nhau ở chô: Trái tim đồng cảm, tiếng gọi của lương tri, lương tâm nhân ái. Ai cũng muốn được yêu thương: “Trong đời chỉ có một điều, ấy là yêu thương” (V.Huy-gô). b.Tình thương là bản chất tốt đẹp vốn có tự nhiên, tự nguyện của con người: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Đó là sự chăm sóc, hi sinh thầm lặng của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu: “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”, “Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”... Sự kính trọng, biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ: Có một cậu bé cùng mẹ ngồi xem cuộc thi hoa hậu. Cậu bé đã hỏi mẹ: “Mẹ ơi, hoa hậu là gì hả mẹ?”. Mẹ nói: “Hoa hậu là người phụ nữ đẹp nhất và tốt nhất”. Vậy là em nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao mẹ không đi thi ạ?”. Ánh mắt của mẹ lúc ấy tràn ngập hạnh phúc. Mẹ đâu cần hoa hậu của cuộc thi sắc đẹp nữa, bởi mẹ đã là nữ hoàng trong trái tim con trai yêu của mẹ rồi. Đó là sự kính trọng, ghi ơn của học trò đối với thầy: “Nhất tự vi sự bán tự vi sư”, “Tôn sư trọng đạo”... Đó là sự nhường nhịn, giúp đỡ giữa anh chị em: “Máu chảy ruột mềm”, “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể tay chân / Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”... Sự đùm bọc, cưu mang giữa những người họ hàng: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Đó còn là sự đồng cảm, xót thương chân thành, sâu sắc đồng bào, đồng loại – những người có số phận đau khổ, bất hạnh: “Thương người như thể thương thân”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Lá lành đùm lá rách”, “ Bầu ơi thương lấy bí cùng”, Trong truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của nhà văn Thạch Lam, hai chị em Sơn và Lan 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 13 thương bạn Hiên - nhà nghèo, ngày rét mà không có áo lành – giấu mẹ mang áo bông cũ tặng bạn. (Một số hành động đẹp: Ủng hộ tiền, đồ dùng sinh hoạt, tham gia các hoạt động từ thiện, tham gia hoạt động xã hội như hiến múa nhân đạo, phong trào thanh niên tình nguyện, nhịp cầu trái tim, nối vòng tay lớn, trái tim cho em, chăm sóc trẻ em khuyết tật, mồ côi trong làng S.O.S,) c.Tình thương là cơ sở của lòng yêu nước thương nòi, là đạo lí, truyền thống quý báu và đẹp đẽ của loài người (ngay cả loài vật cũng có tình thương huống gì là con người!). Trong truyện “Con hổ có nghĩa” của Vũ Trinh, tình thương yêu nhỏ giọt nước mắt của hổ đực dành cho hổ cái đẻ con trong sự đau đớn làm cho ta không thể không cảm động rưng rưng. d.Tình thương tạo nên vẻ đẹp trong cuộc sống: Con người đẹp, gia đình đẹp, xã hội đẹp... Cuộc sống sẽ có ý nghĩa nhân lên gấp bội phần, không cảm thấy cô đơn hay tẻ nhạt, niềm vui nhân đôi và nôi buồn vơi đi một nữa. Nó sẽ là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn, tạo thêm nghị lực vươn lên trong đời. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu cho những ai lầm đường lạc lối: Từ con người chưa tốt thành con người tốt; từ sai lầm, bị cám dô đến hướng thiện; từ ích kỉ trở nên vị tha, bao dung; từ tuyệt vọng đến lấy lại hi vọng, hồi sinh. Các em hãy còn nhớ: Tình thương của cụ họa sĩ già Bơ-men dành cho Giôn-xi (truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri ) làm cho Giôn-xi từ chô muốn chết đến chô thấy chết là một tội. Hay, tình yêu cùng bát cháo hành của Thị Nở đã làm cho Chí Phèo khao khát được lương thiện (truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao). e.Được sống trong tình thương là niềm hạnh phúc lớn, là tiền đề để con người trở nên chân – thiện – mĩ. Những đứa trẻ được nuôi dưỡng, lớn lên trong tình yêu thương sẽ có tâm hồn nhạy cảm với những vui buồn, biết yêu thương, quan tâm đến người khác ở quanh mình. Trái lại, những đứa trẻ bị đối xử thô bạo, bị hắt hủi, bị ruồng bỏ sẽ là bất hạnh khôn cùng sau này. Con người hạnh phúc vì được sống khi bị cái chất rình rập, được ăn khi đang đói, được đầy đủ khi đang nghèo khó, được hi vọng khi đang tuyệt vọng, được thành công sau thất bại... nhưng niềm hạnh phúc lớn lao nhất vẫn là được sống trong yêu thương. “Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất” (Các Mác). Không chỉ người được nhận tình thương mới hạnh phúc mà cả người trao gửi tình thương cũng được hạnh phúc, vì hạnh phúc không phải chỉ nhận mà còn là cho. +Cuộc sống này, năm tháng qua đi, dưới mắt người và trong trái tim người, điều gì còn lại vĩnh hằng? Vật chất, tiền tài, địa vị, sự nhỏ nhen hẹp 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 14 hòi, sự dối trá, ganh tị, chiếm đoạt, thù hận... hay là tình thương cho nhau?! Chiến tranh nước này với nước nọ đã gây ra bao đau thương, tang tóc cho loài người (chất độc màu da cam là một minh chứng của tội ác tày trời). Lí thông hãm hại Thạch Sanh, mẹ con Cám hãm hại Tấm cuối cùng sẽ nhận lấy luật nhân – quả: bị trả báo, Và giả sử, cuộc sống con người một ngày không có tình thương thì một ngày thế giới này sẽ ra sao? +Thế giới không có tình thương là thế giới mờ đen, trái tim khô cứng. “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương” (M.Gorki). Vâng, hơn tất cả mọi thứ trên đời, tình yêu thương là sức mạnh vô biên, là điều chia sẻ quý giá không thể thiếu trong cuộc sống con người. 3.Mở rộng vấn đề a.Tình thương yêu phải xuất phát từ sự tự nguyện, tôn trọng nhau chứ không nên theo kiểu van nài, ban ơn. Đó là tình cảm gắn bó tha thiết, là sự quan tâm hết lòng mà không đòi hỏi được đền đáp. Đó là sự tự nguyện của trái tim, là khát khao nồng nhiệt được quan tâm tới mọi người. Còn lòng thương hại chỉ là một cảm xúc đời thường khi ta nhìn thấy bất hạnh của người khác mà thôi. Sự thương hại không bắt nguồn từ sự yêu mến mà nó nảy sinh từ cái nhìn của một người có thế đứng cao hơn. Khi ta tỏ ra thương hại một ai đó, thực ra ta tự hạ thấp chính người ấy. Đời này chẳng ai cần sự thương hại, chẳng cần xin người khác rủ lòng thương xót mình. Yêu và được yêu thương thật lòng mới là hạnh phúc thực sự của con người. b.Tình yêu thương phải đấu tranh bảo vệ lẽ phải, cùng nhau tiến bộ, chớ bao che cho cái xấu. c.Tình thương không chỉ bằng lời nói mà còn có cả hành động thiết thực, cụ thể. d.Cần phê phán lối sống thờ ơ, ích kỉ, dửng dưng. C.Kết bài Tình yêu thương có một sức mạnh vĩ đại và chính nó sẽ luôn là niềm hạnh phúc quý giá của con người. Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy. Là một ngày thêm để yêu thương. (Trịnh Công Sơn). Cuộc đời có gì đẹp hơn khi người thương người. Người thương người là người giàu có về trí tuệ (chỉ số I.Q), về tâm hồn (chỉ số E.Q), cuộc sống phong phú và đẹp hơn bao giờ hết: Mỗi người thêm nhiều con mắt Mỗi người thêm nhiều cảm rung Trời cũng thêm nhiều màu sắc 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 15 Đất cũng thêm chiều mênh mông. (Trần Lê Văn) Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau. (Tố Hữu) Bài viết tham khảo Các bạn yêu quý! Ngày xưa tuy lam lũ, khó khăn nhưng ông cha ta sống rất nhân hậu: “Ôi đất nước bốn nghìn năm lịch sử / Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa / Trong và thật sáng giữa đôi bờ suy tưởng / Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa” – Một nhà thơ đã viết như thế. Còn ngày nay, con người ta khá lên rất nhiều về vật chất song về tinh thần, tình người dường như rơi vãi? Các bạn đã bao giờ chứng kiến cảnh một con người đối xử vô tâm trước một cụ già chống gậy xin ăn, một em bé lang thang ngoài đường chưa? Nếu thấy thế thì thật là buồn và thất vọng! Sao cuộc sống này vẫn còn một số người quên đi: Tình thương là hạnh phúc của con người? Con người tuy khác màu da, chủng tộc, ngôn ngữ... nhưng đều là đồng loại của nhau. Sống trên đời, không ai giống ai. Môi người môi số phận riêng, môi hoàn cảnh riêng. Có người giàu người khổ, có người hạnh phúc lại có người chẳng may bất hạnh. Tuy vậy, người ta đều bắt gặp nhau ở chô: Trái tim đồng cảm, tiếng gọi của lương tri, lương tâm nhân ái. Các bạn! Tình thương là bản chất tốt đẹp vốn có tự nhiên, tự nguyện của con người: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Đó là sự chăm sóc, hi sinh thầm lặng của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu: “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”, “Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”... Sự kính trọng, biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ: Có một cậu bé cùng mẹ ngồi xem cuộc thi hoa hậu. Cậu bé đã hỏi mẹ: “Mẹ ơi, hoa hậu là gì hả mẹ?”. Mẹ nói: “Hoa hậu là người phụ nữ đẹp nhất và tốt nhất”. Vậy là em nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao mẹ không đi thi ạ?”. Ánh mắt của mẹ lúc ấy tràn ngập hạnh phúc. Mẹ đâu cần hoa hậu của cuộc thi sắc đẹp nữa, bởi mẹ đã là nữ hoàng trong trái tim con trai yêu của mẹ rồi. Đó là sự kính trọng, ghi ơn của học trò đối với thầy: “Nhất tự vi sự bán tự vi sư”, “Tôn sư trọng đạo”... Đó là sự nhường nhịn, giúp đỡ giữa anh chị em: “Máu chảy ruột mềm”, “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể tay chân / Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”... Sự đùm bọc, cưu mang giữa những người họ hàng: 243 ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MAI VĂN NĂM 16 “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Đó còn là sự đồng cảm, xót thương chân thành, sâu sắc đồng bào, đồng loại – những người có số phận đau khổ, bất hạnh. Trong truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của nhà văn Thạch Lam, hai chị em Sơn và Lan thương bạn Hiên - nhà nghèo, ngày rét mà không có áo lành – giấu mẹ mang áo bông cũ tặng bạn. Tình thương là cơ sở của lòng yêu nước thương nòi, là đạo lí, truyền thống quý báu và đẹp đẽ của loài người (ngay cả loài vật cũng có tình thương huống gì là con người!). Trong truyện “Con hổ có nghĩa” của Vũ Trinh, tình thương yêu nhỏ giọt nước mắt của hổ đực dành cho hổ cái đẻ con trong sự đau đớn làm cho ta không thể không cảm động rưng rưng. Tình thương tạo nên vẻ đẹp trong cuộc sống: Con người đẹp, gia đình đẹp, xã hội đẹp... Cuộc sống sẽ có ý nghĩa nhân lên gấp bội phần, không cảm thấy cô đơn hay tẻ nhạt, niềm vui nhân đôi và nôi buồn vơi đi một nữa. Nó sẽ là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn, tạo thêm nghị lực vươn lên trong đời. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu cho những ai lầm đường lạc lối: Từ con người chưa tốt thành con người tốt; từ sai lầm, bị cám dô đến hướng thiện; từ ích kỉ trở nên vị tha, bao dung; từ tuyệt vọng đến lấy lại hi vọng, hồi sinh. Các em hãy còn nhớ: Tình thương của cụ họa sĩ già Bơ-men dành cho Giôn-xi (truyện “Chiếc lá
File đính kèm:
- 243_de_van_nghi_luan_xa_hoi.pdf