Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS
1. Chính Hữu (1926 - 2007)
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.
(Xuân Sách)
* Tiểu sử.
+ Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, đồng hương Can Lộc, Hà Tĩnh với
Xuân Diệu.
Chính Hữu đi học ở Hà Nội và tham gia kháng chiến chống Pháp từ Hà Nội. Ông viết ít mà chắc
khỏe, tiết kiệm ngôn từ. Thơ ông được chú ý vì tiết tấu, nhịp điệu linh hoạt.
Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu là cuộc đời người chiến sĩ, là Tổ quốc VN gian lao mà
anh dũng trong các cuộc chiến tranh giải phóng.
Tác phẩm tiêu biểu: Đồng chí, Sáng hôm nay, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà,.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS
Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS 1. Chính Hữu (1926 - 2007) Tấm áo hào hoa bạc gió mưa Anh thành đồng chí tự bao giờ Trăng còn một mảnh treo đầu súng Cái ghế quan trường giết chết thơ. (Xuân Sách) * Tiểu sử. + Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, đồng hương Can Lộc, Hà Tĩnh với Xuân Diệu. Chính Hữu đi học ở Hà Nội và tham gia kháng chiến chống Pháp từ Hà Nội. Ông viết ít mà chắc khỏe, tiết kiệm ngôn từ. Thơ ông được chú ý vì tiết tấu, nhịp điệu linh hoạt. Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu là cuộc đời người chiến sĩ, là Tổ quốc VN gian lao mà anh dũng trong các cuộc chiến tranh giải phóng. Tác phẩm tiêu biểu: Đồng chí, Sáng hôm nay, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà,.. Ông mất ngày 27/11/2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị - Hà Nội, hưởng thọ 82 tuổi. * Ngoài lề. + Nhà thơ tâm sự: “Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh nước mặn đồng chua hoặc cằn cỗi sỏi đá. Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là của tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản là của tôi. Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật bạn và tôi đều cùng trải qua Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm, ít có những chuyện đùng đoàng chiến đấu. Tôi làm bài “Đồng chí” là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào.Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viếtVấn đề đối với tôi đơn giản hơn những đêm phục kích chờ giặc vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn.” (Nguyên An) + Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ Bài thơ đầu tiên được in báo của ông chính là bài Đồng chí tức Đầu súng trăng treo đăng tải trên báo Sự thật + Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài "Ngọn đèn đứng gác" (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), "Bắc cầu" (nhạc sỹ Quốc Anh), "Có những ngày vui sao" (nhạc sỹ Huy Du) 2. Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) Trường sơn đông em đi hái măng Trường sơn tây anh làm thơ cho lính Đời có lúc bay lên vầng trăng Lại rơi xuống chiếc xe không kính Thế đấy! giữa chiến trường Nghe tiếng bom cũng mạnh! (Xuân Sách) * Tiểu sử. Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi (“Vui, khoẻ và có ích”) của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 66 tuổi. * Bình luận, ngoài lề. + Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây". + Ông được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già”, "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là "có sức mạnh của một sư đoàn". + Là một nhà thơ có nhiều bài thơ hay thời chống Mĩ, PTD đã góp phần đáng kể vào việc làm trẻ hóa thơ VN hồi đó. Thơ ông có nhiều chi tiết từ cuộc sống kham khổ mà đầy lạc quan của người lính, nhịp điệu nhanh hoạt như phảng phất tiếng cười nói vui nhộn tếu tao của người lính mà vẫn nghiêm trang, có chất suy tưởng. (Nguyên An) + Thơ ông hồn nhiên, hóm hỉnh, giàu tính lạc quan với những phát hiện thú vị, đầy chất lính. + Chỉ còn một năm nữa là đến kỷ niệm 50 năm ra đời của Đoàn 559 (tức đơn vị đã khai sinh ra đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại vượt Trường Sơn – tuyến vận tải huyết mạch cung cấp sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường miền Nam). Chúng tôi vẫn nói với nhau: Nếu chọn một nhà thơ đại diện cho văn nghệ sĩ nước nhà đi dự lễ kỷ niệm này, thì không ai xứng đáng hơn Phạm Tiến Duật. (Đặng Vương Hưng - Báo Lao Động số 175 Ngày 31/07/2007 ) 3. Huy Cận (1919 - 2005) Các vị La hán chùa Tây phương Các vị gày quá tôi thì béo Năm xưa tôi hát vũ trụ ca Bây giờ tôi hát đất nở hoa Tôi hát chiến tranh như trẩy hội Không nên xấu hổ khi nói dối Việc gì mặt ủ với mày chau Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu! (Xuân Sách) * Tiểu sử. Ông sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, Hương Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tháng 8 năm 1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận) đi vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. Ông làm Bộ trưởng Bộ Canh nông khi mới 26 tuổi.Sau này thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin. Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới. Làm thơ từ 1934, đăng thơ từ năm 1936. Là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lý. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài". * Giải thưởng: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996). Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội. Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng. Một số Thành phố đã có đường phố mang tên nhà thơ Huy Cận. * Ngoài lề. + Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới , Huy Cận sớm nổi tiếng từ lúc là học sinh ở Huế. Hầu hết thơ Huy Cận trước 1945 thuộc trường phái lãng mạn - điển hình là tập thơ “Lửa thiêng” (1940), tập thơ đầu tay khi ông ở tuổi 20. Sau năm 1945, Huy Cận theo kháng chiến và ở lại miền Bắc. Những tác phẩm sau 1954 được biết đến gồm có: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1964), Những năm 60 (1964). Những tập thơ sau này nghiêng hẳn về xã hộị. Trong nền thơ ca hiện đại VN, Huy Cận có một vị trí vững vàng. Đó là vị trí của một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào, có chất thơ giàu suy tưởng và đằm thắm một tình yêu con người với quê hương, Tổ quốc VN. (Nguyên An) 4. Bằng Việt (1941 - ?) Nhen lên một bếp lửa Mong soi gương mặt người Bỗng cơn giông nổi đến Mây che một khung trời Đất sau mưa sụt lở Mầu mỡ trôi đi đâu Còn trơ chiếc guốc vàng Trăng mài mòn canh thâu. (Xuân Sách) * Tiểu sử. Bằng Việt tên thật: Nguyễn Việt Bằng, quê ở Thạch Thất, Hà Tây (nay là Hà Nội), sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941. Ông là một nhà thơ Việt Nam, từng là Tổng thư kí Hội Văn nghệ Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và đang là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi, đã từng theo học Đại học Luật ở Liên Xô (cũ). Bài thơ đầu tiên được công bố là bài Qua Trường Sa viết năm 1961. Ông bắt đầu được biết đến từ cuối những năm 1960. Bằng Việt gắn bó với việc sáng tác, ngoài ra còn dịch thơ, truyện của các tác giả lớn, viết tiểu sử danh nhân, biên tập báo, biên soạn một số từ điển văn học. Giải thưởng · Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968) · Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982 · Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ t ịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001) · Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002) · Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió" · "Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, với nhận xét: "Nhiều bài đã trở nên quen thuộc với các thế hệ người yêu thơ trong bốn thập kỷ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của người chuyển ngữ. Giải trao cho nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận thành tựu trọn đời của một dịch giả tài hoa có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn chương nước ngoài". * Bình luận. + Thiết tha và đầy thương mến, hay suy ngẫm và có khả năng khái quát - đó là bản sắc của Bằng Việt. (Nguyên An) 5. Nguyễn Khoa Điềm (1943 - ) Một mặt đường khát vọng Cuộc chiến tranh đi qua Rồi trở lại ngôi nhà Cất lên ngọn lửa ấm Ngủ ngon a Kai ơi Ngủ ngon a Kai à... (Xuân Sách) * Tiểu sử. Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, con của nhà cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (Nguyễn Khoa Hải Triều), dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (Hải Dương cũ) Đã là Tổng thư kí Hội Nhà văn VN, Thứ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin. Tác phấm chính: Đất ngoại ô (1971), Đất và khát vọng (tuyển, 1984), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm Ông đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. * Bình luận. + Ngay từ đầu, thơ NKĐ đã có sự kết hợp hài hòa giữa cái trầm lắng thiết tha với âm hưởng hào hùng sôi nổi. Tiếng thơ ấy giành những dòng trang trọng, thành kính để ca ngợi những bà mẹ cần cù, nhẫn nại và anh hùng quả cảm; ngợi ca những tấm lòng nhân hậu trong truyền thống lâu đời của dân tộc và cả trong quan hệ bạn bè, đồng chí bây giờ. Là thi sĩ trưởng thành từ chính cuộc chiến đấu gian lao của dân tộc, từ một nền học vấn cơ bản, vững vàng, thơ NKĐ gần đây càng nghiêng về điềm tĩnh, đắm say. Ông có được những bài đạt tới độ nhuần nhị, có dáng dấp cổ điển (Miền quê, Chiều Hương giang) (Nguyên An) + Thơ của Nguyễn Khoa Điềm đậm đà, bình dị, hồn nhiên, giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người thanh niên trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. 6. Nguy n Duy (1948 - ) Mẹ và em đang ở đâu Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa Ổ rơm teo tóp ngày mùa Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi Bờ tre kẽo kẹt liên hồi Bầu trời vuông với một ngôi sao dời Đánh thức tiềm lực suốt đời Ai? Chẳng ai đáp lại lời của tôi. (Xuân Sách) * Tiểu sử. Tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948, tại xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Hiện sống và viết ở HCM. Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường Phổ thông Trung học Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Giải thưởng: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007 * Thành tựu. + Ông viết và in khá đều. Càng ngày càng tỏ ra là một nhà thơ có biệt ở thể lục bát. Thơ lục bát của Nguyễn Duy uyển chuyển, mượt mà như ca dao truyền thống, mà vẫn hiện đại ở thi liệu, cấu tứ. Nguyễn Duy thường chú ý đến những sự vật quá ư gần gũi như: gốc sim, hạt lúa cháy, một mái tăng, một tấm võng, một tiếng chim, một hố bom, một ổ rơm và gắn bó với chúng là những con người cũng thật bình dị: những bà mẹ gầy gò xơ xác ven đồng chiêm, những ông già nơi miệt vườn, kênh rạch, đồng nước sông Tiền, sông Hậu, những cô đỡ đẻ, cô làm gạch, người lính Ở đâu ông cũng tìm thấy những nét cao quý, kì diệu, thiêng liêng. (NA) + Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này 7. Kim Lân (1920 - 2007) Nên danh nên gía ở làng Chết về ông lão bên hàng xóm kia Làm thân con chó xá gì Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn. (Xuân Sách) Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 - mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, là một nhà văn Việt Nam. Tiểu sử. + Tên thật: Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1/8/1920. Nguyên quán: Phù Lưu, Từ Sơn (nay là Tiên Sơn) Hà Bắc. Hiện sống và viết tại Hà Nội. + Hồi nhỏ nhà nghèo nên chỉ học hết tiểu học rồi phải lao động kiếm sống. Nhờ chịu khóa quan sát, hay suy ngẫm, có dịp đi đến nhiều làng quê trong vùng nên có vốn hiểu biết khá dày dặn về phong tục tập quán ở vùng Kinh Bắc. Sáng tác từ trước 1945, có sở trường về truyện ngắn, tuy viết không nhanh và nhiều, nhưng truyện ngắn của Kim Lân đã đưa đến một ấn tượng: ông là nhà văn kĩ lưỡng, tinh tế trong việc chọn lựa chi tiết, kì khu và tài hoa trong việc chọn lựa ngôn từ, hình ảnh. Vì thế, Nguyễn Khải từng coi ông là bậc thầy để noi theo. Văn của ông tự nhiên mà tinh tế. Nhân vật nông dân và những cảnh quê trong truyện của ông thường toát lên vẻ đẹp của một tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau rất đáng quý. Hoạt động văn học của ông còn được ghi nhận ở những bài giảng ở Trường viết văn nguyễn Du, những lần tham gia Hội đồng giám khảo các cuộc thi sáng tác, những cuộc tọa đàm văn học, những năm biên tập sách báo ở đấy ông tỏ rõ là một nhà văn trọng nghề và quý nghiệp. (Nguyên An) Tác phẩm nổi tiếng: Làng, Vợ nhặt; Nên vợ nên chồng (1955); Con chó xấu xí (1962) Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn, hưởng thọ 87 tuổi. * Ngoài lề, bình luận. + Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của nông thôn với nhiều truyện ngắn mang không khí và hơi thở của nông thôn Việt Nam, tiêu biểu là truyện ngắn Vợ nhặt, Làng đã được đưa vào trong sách giáo khoa môn Văn. Gia tài văn chương của ông để lại không nhiều nhưng đều là những tác phẩm có giá trị như tập truyện Con chó xấu xí , Nên vợ nên chồng. Văn của ông giản dị, gần gũi; nhân vật của ông thường là những người nông dân lam lũ, thật thà. Ông cũng là một trong những nhà văn hiếm hoi xuất hiện trên màn ảnh với vai Lão Hạc trong bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy chuyển thể từ truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao (N. Hằng) + “Người nông dân trong “Làng” vẫn là sự tiếp tục một kiểu người cũ của Kim Lân trong những trang “Vợ nhặt” còn bỏ dở. Một lớp dân nghèo do thân phận ngụ cư nên phải chịu nhiều sức ép của thói quen và thành kiến. Nhưng chuyển vào đời sống cách mạng, họ đã thành người nông dân kháng chiến tản cư, dẫu chỉ là sự chuyển đổi môi trường sống, ngòi bút Kim Lân cũng rất tinh tế mà gạn chắt và khẳng định những nét mới trong phần bên trong và gương mặt của họ. Đưa tình yêu làng lên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cách mạng, nét sống đó mang vẻ đẹp tinh thần mới ở người nông dân đã đưa ông Hai, nhân vật chính của “Làng”, lên vị trí một điển hình người nông dân trong buổi giao thời mới và cũ”. (Văn học VN kháng chiến chống Pháp – NXB Khoa học xã hội, 1986) + Nhà văn kể: “Cái không khí của ngày đầu kháng chiến ở nông thôn tôi đã đưa vào “Làng”. Lúc ấy, Tây còn đóng ở Cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là “Làng chiến đấu”. Trong không khí ấy cùng với dư luận bán tín bán nghi và làng Chợ Dầu Việt gian đã khiến tôi viết truyện này. Ông lão Hai chính là tôi. Dù về nhiều khía cạnh, tất nhiên rất khác. Song cái cốt lõi tâm trạng vẫn là tôi, đó là tâm lí rất thật của dân tản cư” (Kim Lân – Chặng đầu đi tới – Tạp chí văn nghệ số 1) 8. Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy Để mối đùn lên đến lúc già. (Xuân Sách) * Tiểu sử. + Quê: Quy Nhơn, Bình Định. Sống chủ yếu ở Hà Nội (từ năm 1955). Bắt đầu sáng tác từ 16,17 tuổi trong nhóm Thơ Bình Định. Thành công về truyện ngắn và bút kí. Bút danh: Nguyễn Thành Long, Phan Minh Thảo, Lưu Quỳnh. + Giải thưởng: Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội văn nghệ liên khu V trao tặng năm 1953 cho tập bút ký “Bát cơm cụ Hồ”. * Bình luận. + Truyện của ông mang nhiều dáng dấp những người thực, việc thực ngoài đời. Ông là người đã biết chọn lọc từ cuộc sống nhưng mẩu chuyện thực ở nơi này và nơi kia, rồi liên kết chúng lại trong một chuỗi lời kể tự nhiên, điềm tĩnh và linh hoạt. Cốt truyện của ông có nhiều chỗ li kì, chứa đầy những gay cấn và chất thơ vừa nhẹ nhàng vừa trầm lắng, thiết tha. (Nguyên An) + Năm 1985, trong một lần trò chuyện với học sinh ở quê, nhà văn tâm sự: “Một đặc điểm của tôi là chịu đọc” (Xem “Nhà văn của các em”) 9. Nguyễn Quang Sáng (1932 - ) Ông Năm Hạng trở về đất lửa Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy Ông biến thành thằng nộm hình rơm. (Xuân Sách) * Tiểu sử. + Bút danh: Nguyễn Sáng. Sinh năm 1932, quê ở Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang trong gia đình thợ thủ công. Sở trường về truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm nổi tiếng: Con chim vàng, Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch, Dòng sông thơ ấu, và các kịch bản phim: Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Cho đến bao giờ, Dòng sông hát. * Bình luận, ngoài lề. + Truyện của NQS thường hấp dẫn người đọc bằng những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí; bằng mạch kể chậm rãi, từ tốn mà đượm chất xung đột của kịch. Ngôn ngữ Nam bộ trong sáng của ông cũng vừa phải, có chỗ đậm đặc, song vẫn dễ gần. Từ vài chục năm nay, ngoài sáng tác, NQS còn tham gia lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ thành phố HCM Ông vẫn viết đều đều. Ông đã và hiện là một tác giả truyện ngắn được bạn đọc chờ đón, tin cậy ở sức viêt và tài năng, ở tâm hồn và nghệ thuật. (Nguyên An) + Nguyễn Quang Sáng kể: “Bài viết đầu tiên của tôi (tôi còn nhớ là tôi viết trong một quyển sổ tự đóng lấy), tôi được thầy cho một cái điểm không ngờ được: 18/20. Đó là bài viết về một trận đánh mà trận đánh ấy tôi là chú bé giao liên. Cái điểm 18/20 ấy không được ghi vào sổ điểm nhà trường, không giúp cho tôi nhích lên một hạng nào, nhưng tôi nhớ suốt đời. Tôi lại tiếp tục viết lại trao cho thầy và lôn luôn được điểm cao – Đó là bài viết về cuộc đời bộ đội của tôi. Sau đó tôi lại viết kịch, trong vở kịch này tôi nói về buồn vui của tôi dưới mái trường. Vở kịch được diễn đêm chúng tôi ra trường (1950) trước ngày trở về quân đội. Kịch diễn hơn một tiếng rưỡi. Từ đó, tôi hiểu: Văn học bắt nguồn từ cuộc sống”. Phan Đắc Lập lại cho rằng “Nguyễn Quang Sáng có biệt tài kể chuyện. Bằng một lối văn mộc mạc, anh cứ thủ thỉ kể hết cuộc tình này đến cuộc tình khác như một người nông dân Nam Bộ kể chuyện đời xưa và chuyện tiếu lâm. Ấy vậy mà với những trang viết mộc mạc ấy, Nguyễn Quang Sáng đã chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu” 10. Chế Lan Viên(1920 - 1989) * Tiểu sử. Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn. Sau 1954, Chế Lan Viên nằm trong Ban lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội, viết nhiều thơ, bút ký, tùy bút, tiểu luận văn học. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi. Giải th ưởng: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Tác phẩm tiêu biểu: tập văn xuôi Vàng Sao (1942), các tập thơ Điêu Tàn (1937), Gửi Các Anh (1954), Ánh Sáng và Phù Sa (1960), Hoa Ngày Thường -- Chim Báo Bão (1967), Hoa Trên Đá (1984)... * Quan điểm và phong cách sáng tác Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ", thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-1958). Trước Cách mạng tháng 8, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên, qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Sau Cách mạng, thơ ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng" và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống". Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo, nổi bật nhất là "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". * Ngoài lề. + Chế Lan Viên là bố của nhà văn Phan Thị Vàng Anh. + Người ta thường biết Chế Lan Viên qua tập thơ Điêu Tàn, một trong những tác phẩm nổi bật trong thi đàn tiền chiến. Đọc Điêu Tàn là bước vào một thế giới ma quỉ, kinh dị, âm u và huyền bí. Tập thơ mượn những lời rên rỉ, khóc than nghẹn ngào, chất chứa bao u uất lẫn căm hờn của một dân tộc bị diệt vong để bộc lộ lòng yêu nước một cách kín đáo + Thơ. Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi xuân đến gợi thêm sầu Với tôi tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau... 11. Thanh Hải (1930 - 1980) * Tiểu sử. + Tên thật: Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, tại Phong Bình, Phong Diễn, Thừa Thiên – Huế. Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn chương cách mạng miền Nam trong thời kì chống Mỹ. Đã từng là người lãnh đạo của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN, Hội Nhà văn VN. Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 1980 tại Huế. Với 50 mùa xuân cuộc đời, nhà thơ đã để lại 6 tập thơ. * Thơ Thanh Hải là tiếng nói bình dị, chân thành của người chiến sĩ kiên trung, một lòng theo cách mạng, đã có những đóng góp đang quí cho nền thơ chống Mỹ. (Lê Khánh Mai) * Bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca khúc vượt thời gian về mùa xuân. 12. Viễn Phương (1928 - 2005) * Tiểu sử. Tên thật Phan Thanh Viễn, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1928 tại An Giang, mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh, là một nhà thơ Việt Nam. + Sống, sáng tác, tham gia lãnh đạo các hoạt động văn học tại HCM. Sau 1975 ông giữ các chức vụ: chủ t ịch Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật TP.HCM, phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật VN, nguyên ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn VN. Ông được tặng thưởng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. Tác phẩm: Anh hùng mìn gạt, Mắt sáng học trò, Nhớ lời di chúc, Như mấy mùa xuân, * Bình luận: + Thơ Viễn Phương “là một tiếng thơ chân chất, chứa chan tình đồng đội, tình quê hương góp phần tích cực và trực tiếp vào việc cổ vũ, động viên đồng bào chiến đấu. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được coi là một bài thơ hay bởi ý tứ nhuần nhị, hình ảnh sáng tươi, tình cảm đằm thắm, thiết tha. Với bài thơ này, nhà thơ đã nói hộ tiếng lòng của hàng triệu người VN đối với lãnh tụ HCM kính mến. (NA) 13. Y Phương (1948) + Nhà thơ Y Phương là người dân tộc Tày, Tên thật: Hứa Vĩnh Sước. Sinh năm: 1948, tại Trùng Khánh, Cao Bằng. Thể loại chính: thơ, kịch. Tuy sống giữa đất Hà Nội nhưng thường ngày ông vẫn “phát sóng bằng tiếng Tày” với vợ con trong nhà. Nhà thơ kể: “Lên tám chín tuổi tôi mới được đi học trường cấp một thị trấn Trùng Khánh, và tập nói tiếng Kinh. Ngày ấy, mỗi sáng sớm đến trường, mẹ thường cho tôi năm xu một hào để mua đồ ăn sáng. Nhưng tôi đã nhịn, dành dụm số tiền ít ỏi chỉ để mua sách. Tôi coi sách như bạn. Vì tôi không có hứng thú ham chơi thả diều, đá bóng như nhiều bạn cùng lứa. Tôi cô đơn và hay buồn, ngay từ khi còn ít tuổi". Bắt đầu sáng tác từ những năm còn là bộ đội. Đất nước giải phóng, ông vào học trường Viết văn Nguyễn Du, khóa II, niên khoá 1983-1985. Ông đã đoạt Giải nhất cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1983 - 1984, được trao Giải thưởng Nhà nước với ba tập thơ nổi tiếng: "Tiếng hát tháng giêng", "Chín tháng" và "Lời chúc"; từng đảm nhiệm chức Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, rồi Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6 Từ nhiều năm trước, nhà thơ Tế Hanh đã nhận xét về ông như sau: Y Phương là một nhà thơ, một nhà thơ miền núi rất mới mẻ, thơ anh vừa dân tộc, nhưng vừa có cái gì hiện đại, hôm nay và mai sau... + Bài thơ với nhan đề là “Nói với con” đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng vănhóa. 14. Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) Cửa sông cất tiếng chào đời Rồi đi ra những vùng trời khác nhau Dấu chân người lính in mau Qua miền cháy với cỏ lau bời bời Đọc lời ai điếu một thời Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu? (Xuân Sách) * Tiểu sử. Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Ông là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi Giải thưởng 1. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 2000 2. Tác phẩm Cỏ lau đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam vào năm 1990 3. Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1984 - 1989 cho toàn bộ sáng tác của Nguyễn Minh Châu viết về chiến tranh và người lính + Ông là bộ đội viết văn, là nhà văn viết rất kĩ và khá nhanh. Tác phẩm để lại không nhiều, nhưng đọc truyện nào của ông cũng thấy lóe lên một cái nhìn sắc sảo. một sự đầm ấm trong tâm hồn. Ông thường lấy Bình Trị Thiên làm bối cảnh cho tác phẩm của mình nên hình ảnh anh bộ đội, cô thanh niên xung phong dũng cảm, mưu trí, đẹp đẽ đã là hình ảnh trung tâm mang màu sắc lí tưởng hóa trong tác phẩm của ông vẫn thường mang cốt cách, dáng dấp của những người dân ở vùng đất này. Từ những năm 80 trở đi văn của NMC đi sâu vào việc thể hiện và phân tích nội tâm nhân vật, NMC đã trở thành một trong những nhà văn đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học ở ta. Ông qua đời vì bệnh trọng khi tài năng đang vào độ chín, hứa hẹn những thành công mới cao hơn. Trong tình cảm riêng, NMC là người chồng tình cảm, người cha đức độ của 3 cô con gái. “NMC là niềm hãnh diện của những người cầm bút, người kế tục của văn xuôi VN, là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này” (Nguyễn Khải) + Truyện “Bức tranh”: Truyện ngắn “Bức tranh” có lẽ là điểm đánh dấu rất đáng kể cho một hướng tìm tòi của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên ngay ở đầu truyện, nhân vật chính đã gọi câu chuyện của mình là “những lời tự thú”. Có thể gọi đây là truyện ngắn tự thú, là truyện ý thức về đạo đức. Một người thành công trong đời bỗng thấy mình có tội gì đây đối với ai đấy – ít nhất cũng có nghĩa là anh ta thấy mình chưa hoàn thiện. Và cũng có nghĩa là anh ta có khát vọng tự hoàn thiện. Phương diện tích cực, đáng khích lệ của nhân vật là ở đấy. Sức tác động vào sự tự ý thức ở mỗi người đọc truyện sẽ từ đấy mà ra. Những truyện loại này của NMC không hấp dẫn người đọc ở cốt truyện gay cấn hay chi tiết đặc sắc. Nó hấp dẫn người ta chủ yếu bằng độ căng của những tấn kịch nội tâm, độ căng của những thao thức dằn vặt trong bề sâu ý thức nhân vật. (Lại Nguyên Ân – Sáng tác truyện ngắn gần đây của NMC) 15. Hữu Thỉnh (1942) Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố Bị lạc đường về hội nhà văn Ờ nhỉ bao giờ quay tr
File đính kèm:
- chan_dung_va_tieu_su_cac_nha_van_thcs.docx