Đơn công nhận Sáng kiến Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường PTDT BT Tiểu học Dào San

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến hoặc phạm vi ảnh hưởng và hiệu quả áp dụng của sáng kiến: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường PTDT BT Tiểu học Dào San.”
* Lĩnh vực áp dụng sáng kiến đề nghị công nhận sáng kiến hoặc phạm vi ảnh hƣởng và hiểu quả áp dụng: Chuyên môn.
* Ngày sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 9 năm 2021 đến nay.
* Mô tả bản chất của sáng kiến đề nghị công nhận sáng kiến hoặc phạm vi ảnh hƣởng và hiệu quả áp dụng:

Chương trình môn Tiếng Việt bậc Tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cho các em những kĩ năng cơ bản ban đầu về nhận biết các chữ cái, biết phát âm đúng, chuẩn Tiếng Việt và hình thành kĩ năng đọc đúng, đảm bảo tốc độ. Đó là yếu tố đầu tiên của học sinh lớp 1. Các em mới đến trường còn bỡ ngỡ về cả môi trường học tập và khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Học ở mầm non chủ yếu các em được chơi nhiều hơn học nên khi vào lớp 1 lượng kiến thức các em phải tiếp thu, lĩnh hội khá lớn do đó các em gặp nhiều khó khăn trong việc học tập, nhất là môn Tiếng Việt. Vì thế mà nhiệm vụ của giáo viên lớp 1 phải nắm bắt được tâm sinh lí của các em, gần gũi, động viên, chia sẻ những khó khăn đó nhằm giúp các em có tâm thế vào lớp 1 tự tin, mạnh dạn trong các hoạt động học tập và vui chơi. Nhất là kĩ năng đọc.

Đầu năm học được sự phân công của nhà trường tôi nhận lớp 1A3 với tổng số 34 học sinh, 100% các em đều là người dân tộc thiểu số, khả năng ngôn ngữ còn hạn chế, còn ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ nên kĩ năng phát âm, đọc, giao tiếp còn chưa chuẩn Tiếng Việt dẫn đễn việc tiếp thu bài chưa đảm bảo với yêu cầu của môn học. Chính vì vậy nên tôi chọn nghiên cứu và áp dụng “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trƣờng PTDT BT Tiểu học Dào San.” Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.

pdf 14 trang Phương Mai 17/06/2025 440
Bạn đang xem tài liệu "Đơn công nhận Sáng kiến Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường PTDT BT Tiểu học Dào San", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đơn công nhận Sáng kiến Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường PTDT BT Tiểu học Dào San

Đơn công nhận Sáng kiến Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường PTDT BT Tiểu học Dào San
 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
HOẶC PHẠM VI ẢNH HƢỞNG VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 
 Kính gửi: Hội đồng xét công nhận phạm vi ảnh hưởng và hiệu quả áp 
dụng sáng kiến ở cấp cơ sở. 
 Chúng tôi ghi tên dưới đây: 
 Ngày Nơi công tác 
 Số Chức Trình độ 
 Họ và tên tháng (hoặc nơi thƣờng Ghi chú 
 TT danh chuyên môn 
 năm sinh trú) 
 Trường PTDTBT Giáo 
 1 Đèo Thị Huệ 06/08/1991 Cao đẳng 
 Tiểu học Dào San viên 
 Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến hoặc phạm vi ảnh hưởng và hiệu 
quả áp dụng của sáng kiến: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - 
Trường PTDT BT Tiểu học Dào San.” 
 * Lĩnh vực áp dụng sáng kiến đề nghị công nhận sáng kiến hoặc 
phạm vi ảnh hƣởng và hiểu quả áp dụng: Chuyên môn. 
 * Ngày sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 9 
năm 2021 đến nay. 
 * Mô tả bản chất của sáng kiến đề nghị công nhận sáng kiến hoặc 
phạm vi ảnh hƣởng và hiệu quả áp dụng: 
 Chương trình môn Tiếng Việt bậc Tiểu học có vai trò rất quan trọng trong 
việc hình thành cho các em những kĩ năng cơ bản ban đầu về nhận biết các chữ 
cái, biết phát âm đúng, chuẩn Tiếng Việt và hình thành kĩ năng đọc đúng, đảm 
bảo tốc độ. Đó là yếu tố đầu tiên của học sinh lớp 1. Các em mới đến trường còn 
bỡ ngỡ về cả môi trường học tập và khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Học ở 2 
mầm non chủ yếu các em được chơi nhiều hơn học nên khi vào lớp 1 lượng kiến 
thức các em phải tiếp thu, lĩnh hội khá lớn do đó các em gặp nhiều khó khăn 
trong việc học tập, nhất là môn Tiếng Việt. Vì thế mà nhiệm vụ của giáo viên 
lớp 1 phải nắm bắt được tâm sinh lí của các em, gần gũi, động viên, chia sẻ 
những khó khăn đó nhằm giúp các em có tâm thế vào lớp 1 tự tin, mạnh dạn 
trong các hoạt động học tập và vui chơi. Nhất là kĩ năng đọc. 
 Đầu năm học được sự phân công của nhà trường tôi nhận lớp 1A3 với 
tổng số 34 học sinh, 100% các em đều là người dân tộc thiểu số, khả năng ngôn 
ngữ còn hạn chế, còn ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ nên kĩ năng phát âm, đọc, giao tiếp 
còn chưa chuẩn Tiếng Việt dẫn đễn việc tiếp thu bài chưa đảm bảo với yêu cầu 
của môn học. Chính vì vậy nên tôi chọn nghiên cứu và áp dụng “Một số biện 
pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trƣờng PTDT BT Tiểu học Dào San.” 
Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt cũng 
như các môn học khác. 
 * Mô tả sáng kiến 
 Tính mới: 
 Giáo viên kết hợp các phương pháp rèn nề nếp trong dạy học để nâng cao hiệu 
quả của giờ học. Qua đó nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong lớp học. 
 Với giải pháp đưa ra, giúp học sinh được phát huy vai trò tự học, tự chiếm lĩnh, 
tự quản và tự đánh giá. Tăng tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc khai thác 
kiến thức cũng như trong thực hành vận dụng. 
 Giải pháp hình thành và phát triển một cách có hệ thống về kĩ năng đọc 
đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm. Từ đó tạo được động cơ và thái độ tự học, tự 
chiếm lĩnh tri thức của học sinh. 
 Giải pháp đưa ra áp dụng với lớp 1A3, giáo viên đã thấy nhẹ nhàng hơn 
trong các giờ dạy, không khí lớp học vui hơn, học sinh thấy gần gũi và thân 
thiện hơn. Qua một thời gian giáo dục các em bằng nhiều biện pháp, một số học 
sinh chậm tiến bộ trong lớp chủ nhiệm đã có tiến bộ, số học sinh đọc tốt, viết tốt 
được nâng lên. 
 3 
 Giáo viên qua quá trình tìm tòi, học hỏi cũng đúc kết được nhiều kinh 
nghiệm để nâng cao kĩ năng sư phạm cho bản thân. 
 Các giải pháp thực hiện: 
 Sáng kiến “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1A3 - Trường 
PTDT BT Tiểu học Dào San.” Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng 
học tập môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Để đạt được điều đó tôi đã 
nghiên cứu và áp dụng đồng thời 6 giải pháp cụ thể như sau: 
 Giải pháp 1: Giáo viên hƣớng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn: 
 * Điểm mới: Giúp cho học sinh phát âm chuẩn, tránh nhầm lẫn giữa các 
âm, vần, tránh phát âm ngọng theo tiếng địa phương. 
 * Cách thực hiện: 
 Đọc đúng âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo 
viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Đối với 
những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, phân tích cụ 
thể cách đọc (môi-răng-lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi) 
 Để sửa lỗi cho học sinh tôi hướng dẫn luyện đọc và phát âm lại những lỗi 
mà các em đã đọc chưa đúng, đồng thời kết hợp hướng dẫn cách đọc cho các em 
như sau: 
+ Âm l: Đầu lưỡi chạm lên vòm miệng, lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi 
thoát ra mạnh, dứt khoát. 
+ Âm đ: Đầu lưỡi chạm vào chân răng trên, chạm nhẹ tay vào cổ thấy có sự 
rung nhẹ, đẩy nhẹ lưỡi vào chân răng, hạ lưỡi xuống và phát ra tiếng. 
+ Âm b: Hai môi chạm vào nhau, mở miệng, bật mạnh hơi, phát tiếng. 
+ Âm v: Răng hàm trên chạm vào môi dưới, đẩy nhẹ hơi ra ngoài há miệng và 
bật hơi ra. 
+ Âm ch: Lưỡi thẳng, chạm nhẹ vào phần ngạc cứng, bật hơi ra. 
+ Âm tr: Lưỡi hơi cong lại, đầu lưỡi chạm vào phần chân răng trên, há miệng 
bật hơi ra dứt khoát. 
 4 
+ Âm x: Đầu lưỡi chỉ đặt nhẹ giữa hai hàm răng tạo ra luồng gió rít mạnh, bật hơi ra. 
+ Âm s: Phần đầu lưỡi cong lên rồi bật mạnh xuống dưới hai hàm răng tạo thành 
luồng gió rít mạnh thẳng, bật hơi phát tiếng. 
 Ngoài đọc chua đúng âm còn có một số học sinh đọc ngọng vần “at” đọc 
thành “ac”, giáo viên cần hướng dẫn: 
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. 
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. 
 Học sinh dân tộc thường hay mắc lỗi sai về các dấu thanh nhất là thanh sắc và 
thanh ngã. Ví dụ: Học sinh hay đọc sai: " bị ngã" thành " bị ngá", " đỡ bé" thành " đớ 
bé". Tôi hướng dẫn học sinh cách đọc tiếng có chứa thanh sắc và thanh ngã như sau: 
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc 
nhanh, không kéo dài. 
+ Những tiếng có thanh ngã: đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, giọng cao. 
Tiến hành cùng lúc với các việc làm trên chính là việc giúp học sinh ghi nhớ 
tiếng, từ thông qua việc hiểu nghĩa tiếng, từ đó. Tôi sẽ kết hợp sử dụng cây từ 
vựng Tiếng Việt để học sinh vừa được học vừa được chơi. Việc tư duy trừu 
tượng để nhớ từ, hiểu nghĩa từ tiếng Việt được gắn liền các hoạt động trực quan 
sinh động nên học sinh nhớ và hiểu được nghĩa của từ. Thông qua các chủ đề, 
chủ điểm, học sinh sẽ nhớ và hiểu nghĩa được các tiếng, từ mới, khi nhớ - hiểu 
được từ học sinh sẽ nhớ được cách phát âm đúng nhất của tiếng, từ đó. 
 Giải pháp 2: Giáo viên phát âm chuẩn: 
 * Điểm mới: Giúp học sinh phát âm chuẩn ngay từ lần đọc các âm, vần 
đầu tiên. 
 * Cách thực hiện: 
 Đặc điểm của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước và làm theo. Vì vậy, 
giáo viên cần hướng dẫn học sinh nghe và phát âm đúng. Muốn học sinh đọc tốt thì 
người giáo viên đọc phải là người làm mẫu chuẩn khi đọc các âm, vần, tiếng, từ để 
học sinh quan sát và kết hợp cho học sinh quan sát khẩu hình khi phát ra tiếng của 
 5 
giáo viên. Khi hướng dẫn cần dùng lời nói mạch lạc, dứt khoát để các em dễ hiểu 
có thể tự mình đọc đúng các âm, vần, tiếng, từ dễ nhầm lẫn. Khi vận dụng phương 
pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ 
năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô giáo). 
Như thế học sinh sẽ đọc đúng và dễ dàng hơn. Vậy khi đọc mẫu người giáo viên 
không chỉ là phát ra tiếng mà cần biết phối hợp với “khẩu hình” nhằm hướng dẫn 
các em phát âm tốt hơn, bởi trong môn Tiếng Việt 1 kĩ năng đọc đúng là rất quan 
trọng nó giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. 
Khi các em biết đọc và đọc chính xác các âm, vần, tiếng, từ thì các em mới có thể 
tự tin, mạnh dạn, tích cực và chất lượng đọc đảm bảo. 
 Ví dụ: Với các âm, vần kết thúc bằng âm ''m'', "p" khi đọc giáo viên 
hướng dẫn học sinh cần bật nhẹ hai bờ môi khép lại với nhau, vừa hướng dẫn 
giáo viên vừa kết hợp làm mẫu để học sinh quan sát và lắng nghe: “ am, ăm, 
âm, ap, ăp, ấp.” 
 Đối với học sinh cần cho các em luyện đọc nhiều, và thường xuyên kiểm 
tra việc tự đọc của các em vào đầu giờ học, trong giờ học để nắm được việc tiếp thu 
bài của các em trong mỗi giờ học. 
 Giải pháp 3: Khuyến khích học sinh biết sửa lỗi cho bạn: 
 * Điểm mới: Với biện pháp này học sinh được trao đổi, tương tác, chỉa sẻ 
cùng nhau, vừa là người học vừa là người kiểm tra bạn. Qua đó học sinh được 
làm chủ hoạt động, tự tin mạnh dạn hơn. 
 * Cách thực hiện: 
 Trong một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh 
thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tính tích cực, chủ động của 
học sinh, đồng thời bầu không khí trong lớp học sẽ trở nên nhàm chán, thiếu sự 
nhẹ nhàng, tự nhiên. Trong quá trình rèn đọc cho học sinh, tôi luôn đặc biệt quan 
tâm đến sự tương tác giữa học sinh với học sinh, và chú trọng việc rèn cho các 
em có kĩ năng nghe-nhận xét-sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Giáo viên 
tạo thói quen sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học, tạo nề nếp 
 6 
học tập cho các em. Qua quá trình nghe để nhận xét bạn, sửa sai giúp bạn, sẽ 
giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn cho các em tác 
phong mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp 
phần hình thành nhân cách cho các em. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo 
được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của 
việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực để phát triển năng và 
phẩm chất của các em. 
 (Hỉnh ảnh học sinh đang đọc nhóm sửa lỗi cho nhau) 
 Trong quá trình dạy học tôi cũng thường xuyên tổ chức thi đọc cho các 
em qua các trò chơi (Ai nhanh ai đúng, đố bạn,...) nhằm rèn tính mạnh dạn, tự 
tin cho các em. Thông qua các trò chơi nhằm gây hứng thú, khơi dậy niềm đam 
mê học tập nhất là môn Tiếng việt. Các em chậm tiến sẽ học tập cách đọc của 
các bạn đọc tốt và phấn đấu đọc tốt giống bạn. 
 Giải pháp 4: Rèn luyện tính tự học cho học sinh: 
 * Điểm mới: Thông qua tổ chức các hoạt động học tập thu hút học sinh 
chủ động trong giờ học như: hoạt động nhóm, hoạt động trò chơi học tập. Từ các 
hoạt động và nhiệm vụ học tập học sinh phải tìm kiếm thông tin hoàn thành 
nhiệm vụ bằng cách đọc bài hoặc các tài liệu. 
 7 
 * Cách thực hiện: 
 Việc rèn cho học sinh có tính tự học là một nhiệm vụ quan trọng. Bản thân 
người giáo viên cần tìm hiểu xem để thực hiện được việc đó cần những điều 
kiện nào? Có hai việc không thể thiếu đó là cách học và sự say mê hứng thú học 
tập. Vì khi đã có cách học tức là các em đã biết cách làm việc độc lập cộng với 
niềm say mê hứng thú học tập thì các em sẽ tự giác học. Có cách học với tinh 
thần tự giác, say mê học tập chắc chắn các em sẽ có tính tự học. Trong quá trình 
dạy học giáo viên cần xây dựng phát triển cho học sinh niềm đam mê, hứng thú 
học tập cũng như hình thành cho các em cách tự học. Muốn tiết học thực sự thu 
hút, hấp dẫn học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết và năng tổ chức 
các hoạt động. Để làm tốt được việc đó người giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ đồ 
dùng học tập, chọn lọc những phương pháp phù hợp nội dung bài dạy, phù hợp 
đối tượng học sinh của lớp mình là việc làm không thể thiếu để có tiết dạy đạt chất 
lượng, học sinh thực sự bị thu hút khi được tham gia các trò chơi. 
 Ví dụ: Bài tập đọc "Bữa cơm gia đình" giáo viên tổ chức cho học sinh 
thực hành tìm thẻ từ chỉ người thân trong gia đình lên "Cây gia đình". Khi tham 
gia chơi trò chơi học sinh được tự tìm hiểu, khám phá để có được kết quả như 
mong muốn nên học sinh sẽ tập trung cao độ vào trò chơi. Do đó, trong mỗi tiết 
học giáo viên cần tìm tòi các kiến thức mới gây hứng thú nhận thức cho các em 
nhưng kiến thức ấy không quá sức so với trình độ nhận thức của các em. Với 
phương pháp lôi cuốn, nội dung hấp dẫn thì các em sẽ bị lối cuốn vào từng tiết 
học, sẽ không ngừng tìm tòi, liên hệ thực tế, tự đặt ra các câu hỏi và tìm cách để 
giải đáp thắc mắc. Từ những hoạt động đó giáo viên đã hướng đến con đường tự 
học cho học sinh. Để phát triển niềm say mê hứng thú trong học tập giáo viên 
nên cho các em tham gia phong trào thi đua giữa các tổ, nhóm. 
 Ngoài ra giáo viên cũng hướng cho các em tự học dưới sự điều khiển của 
tổ trưởng trong giờ ra chơi về một bài tập đọc nào đó mà giáo viên đã chuẩn bị 
cho các em luyện đọc trước và trả lời câu hỏi rồi trình bày trước lớp, tổ trưởng 
 8 
kiểm tra kết quả việc đọc của các bạn báo cáo với giáo viên. Nhận xét tuyên 
dương những em có tiến bộ trong học tập. 
 Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp với gia đình thường xuyên nhắc nhở, 
động viên, chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ để các em có thể học tập ở nhà. Để 
giúp học sinh có cách tự học giáo viên cần: 
 + Trong các tiết học ở mỗi nội dung ngoài dạng kiến thức kĩ năng, giáo 
viên cần hướng dẫn các em cách tư duy. 
 Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc hiểu giáo viên phải hướng dẫn học sinh 
đọc bài đọc, đọc câu hỏi và tìm câu trả lời ở trong bài tập đọc. 
 (Hình ảnh học sinh tự đọc bài cá nhân) 
- Khi học sinh tự học ở nhà, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể vừa sức với học 
sinh hướng dẫn cách học bài, làm bài khi em học ở nhà. 
 Giải pháp 5: Dạy học phân hóa từng đối tƣợng học sinh: 
 * Điểm mới: Dạy học phân hóa phù hợp với năng lực học của học sinh, 
tránh việc nhàm chán, hoặc học không theo kịp các bạn. Dẫn đến việc học 
không có hiệu quả. 
 * Cách thực hiện: 
 9 
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần dựa vào năng lực của người học. Chính vì 
vậy, ngay từ đầu năm học tôi đã chú trọng việc dạy phân hóa phù hợp nhận thức của 
từng học sinh. Việc dạy học theo nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả học sinh đều tích 
cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học, đồng thời phát 
triển năng lực học tập của học sinh. 
 Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: Đối 
với học sinh ở mức Hoàn thành tốt thì hướng dẫn cho các em kiến thức mở rộng 
và nâng cao nhằm bồi dưỡng học sinh có năng lực học tốt hơn bằng cách giao 
việc ở mức khó hơn nhằm thúc đẩy khả tư duy và sáng tạo cho các em; đối với 
học sinh hoàn thành thì tạo động lực để các em vươn lên; đối với học sinh chưa 
hoàn thành thì động viên khuyến khích các em bằng cách giao việc phù hợp và 
kiểm tra sự tiến bộ hàng ngày và tuyên dương kịp thời. Như vậy, dạy học phân 
hóa xuyên suốt và chi phối mọi phương pháp dạy học. Khi giáo viên thực hiện 
phương pháp đọc ở trên lớp thì phải phân hóa cho được các đối tượng học sinh, 
để áp dụng từng biện pháp đọc-hiểu văn bản ở những mức độ khác nhau. Như 
chúng ta đã biết, mỗi đối tượng học sinh đều có cách nhận thức khác nhau. Vì 
vậy, phân hóa từng đối tượng để chúng ta có cách dạy, cách rèn đọc, cách kèm 
cặp khác nhau. Với em học sinh đọc chưa được tôi rèn đọc chậm, rèn đọc từ đơn 
vị nhỏ như: đọc âm, đọc đánh vần, đọc tiếng...) với học sinh năng khiếu thì rèn 
đọc từ đơn vị lớn hơn như: đọc cụm từ, câu, đoạn thơ, đoạn văn, yêu cầu đọc tốc 
độ nhanh hơn, nếu sai chỗ nào thì sửa chỗ ấy. 
 Ngoài ra dạy học phân từng đối tượng học sinh tôi cho học đọc tốt kèm 
cặp những học sinh có kĩ năng đọc còn chậm. 
 Những học sinh còn chậm ngoài những giờ học chính tôi cho các em rèn 
đọc lại vào đầu giờ chiều, giờ ra chơi. 
 Ví dụ: Khi dạy âm ''b'' có thể em đọc nhiều lần không nhớ. Đối với học 
sinh nhận thức chậm tôi cho em ngày nào cũng đọc lại bài. 
 10 
 Thông qua việc dạy học phân hóa giáo viên nắm được các năng lực học 
tập của học sinh một cách cụ thể. 
 Dạy học phân hóa giúp học sinh trở nên thích thú, say mê với mỗi nhiệm 
vụ được giao. Học sinh đọc tốt được nâng cao mở rộng kiến thức, học sinh đọc 
chậm dần dần làm chủ được những kiến thức cơ bản. 
 Ví dụ: Trong tiết tập đọc “Tôi là học sinh lớp 1”. Khi tổ chức luyện đọc 
tôi tổ chức cho các em học sinh Hoàn thành tốt đọc câu, đọc đoạn, sau đó đọc 
diễn cảm. Còn học sinh đọc chưa nhanh vẫn đánh vần, tôi tổ chức cho các em 
đọc từng câu, từng đoạn, khi nào các em đọc tốt câu 1 mới chuyển sang câu 2. 
Qua hình thức tổ chức này giúp các em học sinh Hoàn thành tốt không bị nhàm 
chán, tránh việc ngồi chơi khi nhiệm vụ đơn giản dễ thực hiện. Còn học sinh 
chưa nhanh thì sẽ có nhiệm vụ vừa sức, thực hiện được, tránh nhiệm vụ quá sức 
các em không làm được sẽ ngồi chơi. 
 Giải pháp 6: Động viên, tuyên dƣơng, khuyến khích học sinh: 
 * Điểm mới: Trẻ nhỏ luôn mong mốn được người lớn khen, nên việc động 
viên tuyên dương, khuyến khích sẽ giúp học sinh hứng thú, vui vẻ, tạo được 
không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi 
mà các em thường mắc phải. 
 * Cách thực hiện: 
Năm học 2020-2021 là năm đầu tiên thực hiện đổi mới chương trình sách giáo 
khoa ở bậc tiểu học và đặc biệt là đối với lớp 1 mới đầu tiếp cận chương trình 
sách giáo khoa mới. Khi hướng dẫn kĩ năng đọc cho học sinh tôi cũng thường 
xuyên kiểm tra, đánh giá và kết hợp với biện pháp tuyên dương, khích lệ. 
Ví dụ dạy bài tập đọc “ Câu hỏi của sói- TV 1 Tập 2- trang 90-91). Khi tổ chức 
đọc phân vai tôi gọi đại diện các nhóm lên đọc. nhóm nào đọc tốt nhất tôi sẽ 
khen các em bằng cách cho mỗi em 1 bông hoa màu đỏ để dán vào bảng hoa 
điểm tốt ở cuối lớp, các nhóm khác sẽ khen bằng lời và sự động viên của cả lớp. 
“Các bạn đã đọc đúng, có tinh thần xung phong, cả lớp rành cho các bạn 1 tràng 
pháo tay,” 

File đính kèm:

  • pdfdon_cong_nhan_sang_kien_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sin.pdf