Sáng kiến kinh nghiệm Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9

Trong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương ở vùng quê của các em, điều ấy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này. Một thực trạng nữa của giờ luyện nói trên lớp là học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài nói rồi lên lớp đọc lại) làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và tác phong phù hợp. Sở dĩ có tình trạng trên là do phần lớn học sinh đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, điều kiện tiếp xúc với chỗ đông người còn hạn chế nên các em thiếu tự tin, e dè, ngại ngùng và hồi hộp khi nói trước tập thể. Đôi khi học sinh chuẩn bị bài nói rất kĩ nhưng vì thiếu tự tin, hồi hộp quá nên các em cũng không nói được bài nói của mình. Với những điều nêu trên, chắc chắn giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn khi tổ chức tiết luyện nói. Từ đó ta thấy vấn đề đặt ra là phải tạo cho học sinh sự tự tin, mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kĩ năng nói và hình thành những chuẩn mực trong bài nói nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện nói cho học sinh, góp phần thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS. Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài "Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9".

doc 18 trang phuongnguyen 22/07/2022 6561
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9

Sáng kiến kinh nghiệm Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9
I. Đặt vấn đề.
	Mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ và đặc biệt là có khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại. Quan điểm tích hợp và tích cực luôn chi phối các hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất là ở phần dạy các kĩ năng làm Tập làm văn. Một tiết dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả trước hết phải tạo nên không khí hứng thú cho mỗi giờ học. Không khí đó chỉ có được khi người dạy biết đa dạng hóa các hình thức, biện pháp dạy học. Mặt khác, với tinh thần quan điểm dạy học mới, SGK Ngữ văn không chỉ chú trọng nội dung mà còn chú trọng hình thức nhằm phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Để đạt được những mục tiêu trên và thực hiện theo yêu cầu của phương pháp dạy học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các  biện pháp nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói là vô cùng quan trọng. Nói sao cho người nghe hiểu là điều không phải ai cũng thực hiện tốt. Người nói khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ tìm cách bộc lộ, truyền đạt thông tin đó một cách hiệu quả nhất. Muốn hoạt động nói có hiệu quả trong giờ học Ngữ văn, người dạy phải hướng dẫn rèn luyện cho các em, tập cho các em mạnh dạn trước tập thể. Nhiều khi các em có dự kiến trong đầu nhưng lại không nói ra được và người thầy sẽ không nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu, cảm thụ của các em trong giờ học Ngữ văn. Vậy rèn kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn vừa hình thành phong cách cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống.
	Tục ngữ có câu:
 “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. 
Không ngẫu nhiên mà“học nói”được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho thấy nói cũng là một kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS, về kỹ năng, chương trình môn Ngữ văn nhấn mạnh trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh là làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Chính vì thế, SGK Ngữ văn THCS đã chú trọng hơn tới việc hình thành và phát triển kỹ năng nói. Đây là một trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Cụ thể là bố trí một số giờ luyện nói độc lập theo từng kiểu văn bản cần tạo lập chương trình:
Lớp 6: 
Tiết 29 – Tuần 8 – Bài 7: Luyện nói kể chuyện 
Tiết 43 – Tuần 11 – Bài 11: Luyện nói kể chuyện 
	Tiết 83, 84 – Tuần 21 – Bài 20: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
	Tiết 96 – Tuần 24 – Bài 23: Luyện nói về văn miêu tả 
Lớp 7: 
	Tiết 40 – Tuần 10 – Bài 10: Luyện nói : Văn biểu cảm về sự vật, con người.
	Tiết 56 – Tuần 14 – Bài 13: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
	Tiết 113 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.
Lớp 8: 
	Tiết 42 – Tuần 11 – Bài 10: Luyện nói: Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
	Tiết 54 – Tuần 14 – Bài 14: Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng.
Lớp 9: 
	Tiết 65 – Tuần 13 – Bài 13: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm.
	Tiết 140 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
	Xuất phát từ tình hình thực tế của việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói chung và trong giờ luyện nói của môn Tập làm văn nói riêng là còn nhiều hạn chế. Nghịch lý của giờ luyện nói vẫn thường xuyên xảy ra: giờ luyện nói là điều kiện tốt nhất để học sinh bày tỏ quan điểm, tình cảm, khả năng giao tiếp của mình trước bạn bè nhưng các em lại im phăng phắc, nép mình chờ nghe giáo viên chỉ định. Dường như tính tự tin, hoạt bát thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật nặng nề. Đã có học sinh chân thành phát biểu rằng: “Một điều đáng sợ là phải học giờ luyện nói Tập làm văn!”. Bởi các em giờ cũng đã lớn nên thường có tâm lý e dè, ngại nói hoặc không tự tin khi nói. Khi tham gia luyện nói, lời nói của các em không tự nhiên, nói lủng củng ngập ngừng không rõ ràng, không nói được điều muốn nói, không kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượngTrong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương ở vùng quê của các em, điều ấy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này. Một thực trạng nữa của giờ luyện nói trên lớp là học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài nói rồi lên lớp đọc lại) làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và tác phong phù hợp. Sở dĩ có tình trạng trên là do phần lớn học sinh đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, điều kiện tiếp xúc với chỗ đông người còn hạn chế nên các em thiếu tự tin, e dè, ngại ngùng và hồi hộp khi nói trước tập thể. Đôi khi học sinh chuẩn bị bài nói rất kĩ nhưng vì thiếu tự tin, hồi hộp quá nên các em cũng không nói được bài nói của mình. Với những điều nêu trên, chắc chắn giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn khi tổ chức tiết luyện nói. Từ đó ta thấy vấn đề đặt ra là phải tạo cho học sinh sự tự tin, mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kĩ năng nói và hình thành những chuẩn mực trong bài nói nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện nói cho học sinh, góp phần thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS. Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài "Góp phần nâng cao hiệu quả của tiết luyện nói trong môn Ngữ văn 9".
	Đối tượng nghiên cứu khảo sát: Học sinh lớp 9C.
	Thời gian nghiên cứu khảo sát: Năm học 2017 - 2018.( Bắt đầu tháng 8/2017 kết thúc tháng 4/2018).
	Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát, vấn đáp, thực hành.
II. Giải quyết vấn đề.
 1. Cơ sở lý luận.
	Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy học tập làm văn là tăng tính thực hành ứng dụng cho chương trình Ngữ văn đối với học sinh THCS và khắc phục hạn chế quá chú trọng đến việc đọc viết hơn nghe nói của chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục.
	Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng nói trong chương trình Ngữ văn THCS là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tương đối thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao tiếp và thực tiễn dạy học môn phân môn Tập làm văn ở trường phổ thông. Điểm mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn. Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
	Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Trong giờ luyện nói hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp qua ngôn ngữ. Giờ luyện nói có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như giờ làm văn viết là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Không khí giờ làm văn miệng dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này. Về tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Có thấy rõ đặc thù của hoạt động luyện nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên mới tiến hành có hiệu quả giờ học vốn rất sinh động, hấp dẫn và hướng dẫn được những học sinh có tâm lý ngại ngùng phát biểu trước tập thể lớp. Giờ luyện nói là cơ hội tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm học sinh qua cách nói năng, diễn đạt...
 	Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
       	 Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc, logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượngVì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.         
 2.Cơ sở thực tiễn. 
	Qua những năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, ở bộ môn Ngữ văn, tiết dạy “Luyện nói” mặc dù nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng cũng ít người thành công qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh không tự tin khi nói trước đám đông. Thời gian luyện nói lại có hạn (45 phút) không tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im. Kết quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết luyện nói, nhất là trình độ học sinh ở vùng sâu vùng xa. So với yêu cầu của phương pháp dạy mới và những định hướng của sách giáo viên thì tiết dạy “luyện nói” và hoạt động nói của học sinh qua tiết dạy còn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu.
	Trong thực tế giảng dạy ở trường thuộc địa bàn nông thôn, đa số học sinh chưa có kỹ năng nói trước tập thể, rất ngại nói, không tự tin khi nói trước đông người. 
        Nhiều giáo viên có chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do sách giáo viên không có hướng dẫn cụ thể. Khi  giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu đáo thì việc tổ chức cho học sinh luyện nói trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao. Không khí học tập của học sinh khác hẳn khi giao viên thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, tất cả như có một luồng điện vô hình nào đó được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em giơ tay xin được trình bày kết quả, cảm nhận tổng hợp và thật là thoả mãn với những kiến thức được chắt lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em. Đó cũng là lúc giáo viên có điều kiện để điều chỉnh và kích thích các em học tập, thực tế niềm vui đựợc giáo viên quan tâm sẽ cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của mình là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong lần sau.
	Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ văn của các em trước hết người giáo viên phải là người tìm ra được những biện pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra được những điều mình tư duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói. Đây cũng là kĩ năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ cảm xúc những điều cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể. Vừa là biện pháp có khả năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. 
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
 	Với quan điểm dạy học theo phương pháp mới hiện nay đã nhấn mạnh: “Thầy chủ đạo, trò chủ động”, “Học sinh là chủ thể sáng tạo”. Để phát huy tính tích cực của học sinh, thì giáo viên phải làm tốt vai trò của người nhạc trưởng. Cụ thể để dạy được giờ luyện nói Tập làm văn thành công, giáo viên cần phải quan tâm đến những khía cạnh sau :
	a. Phát huy kỹ năng nói trong sinh hoạt hàng ngày nhằm tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói.
	Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng trong những giờ học, giáo viên nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giờ lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em, ngoài ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn. Trên thực tế, khi giáo viên làm được việc đó thì các em vốn rất nhút nhát và không dám trao đổi với thầy cô trong cuộc sống đã có sự thay đổi, các em dần dần bớt e ngại, rụt rè và trở nên dạn dĩ hơn, tiếp xúc với giáo viên và tập thể một cách tự nhiên hơn. 
	Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước khoảng một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia lớp từ 4 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài .
	Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tâm thế trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để chọn đại diện lên nói. Giáo viên nên hướng học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác. Thời gian để thảo luận là 5 phút.
	Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự thoải mái và hào hứng cho lớp học, cho từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến khích bằng cách cho điểm hoặc những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói tốt. Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên dành nhiều thời gian cho học sinh lên nói ( khoảng 25 phút), và số lượng học sinh lên trình bày phải từ 8 đến 10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau.
	b. Rèn luyện kỹ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các kỹ năng khác.
	Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kỹ năng nói cho học sinh thông qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích óc tư duy và sự phản xạ. Những câu hỏi có ích nhiều nhất là những câu hỏi mà học sinh không thể trả lời một cách ngắn gọn là “ có” hay “ không” . Thực tế , nếu giáo viên đặt những câu hỏi quá khó thì học sinh khó trình bày ý kiến của mình một cách trọn vẹn được. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin... Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy nghĩ trong khi phát biểu và cả trong thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác. 
	Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về chính âm, chính tả, từ ngữ địa phương và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn người nghe.	
	c. Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề các tiết luyện nói đã học.
	Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ cho học sinh . Mục đích của công việc này là giúp học sinh có thêm thời gian để cọ xát với việc tập nói.
	Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài gần gũi như: “Hình ảnh người thầy trong ca dao, tục ngữ” nhân ngày 20/11, “Trao đổi kinh nghiệm học tập” hay đến những đề tài gắn với chủ đề của giờ luyện nói đã học trên lớp như: Kể về bản thân em (gia đình em, người em yêu quý), cái hay cái đẹp trong các khổ thơ cụ thể ...
	Hình thức: Giống như buổi thuyết trình.
 	Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
	Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
	Ý nghĩa của việc làm này sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, tạo tiền đề cho các em vững vàng hơn trong khi học tiết luyện nói trong những năm tới.
	d. Biện pháp trọng tâm trong tiết luyện nói.
	*. Xác định mục đích yêu cầu của việc luyện nói.
	Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, giáo viên cho trước đề tài cho các em về nhà soạn, hướng dẫn các em: Giúp các em chuẩn bị tốt nội dung, yêu cầu bài nói để các em xác định được đề tài (Nói cái gì ?); xác định đối tượng giao tiếp (Nói trong hoàn cảnh nào ?); xác định mục đích giao tiếp (Nói để làm gì ?); cách thức giao tiếp (Nói cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu quả (Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói); tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin, mạnh dạn; Tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng quán xuyến người nghe; Yêu cầu tập thể lớp chú ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét. 
	*. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà.
	Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà. Tới lớp, trước khi tiến hành luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thông qua tổ trưởng, nhóm trưởng, sau đó báo cáo cho giáo viên. Giáo viên nên kiểm tra lại khoảng từ năm đến mười em.
	*. Tổ chức triển khai thực hiện giờ luyện nói trên lớp.
 Bước 1: Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh.
 Bước này giáo viên phải đặc biệt chú ý, không thể bỏ qua hay lơ là được vì đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ tạo thói quen học tập tự giác cho học sinh và có biện pháp kịp thời đối với những học sinh yếu hoặc lười học.
 	 Bước 2: Thống nhất lại dàn bài chung.
 Phần này giáo viên không đi lại từng bước nhỏ như phần chuẩn bị bài vì sẽ mất thời gian. Giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải đáp vướng mắc mà các em gặp phải trong phần chuẩn bị bài. Trên cơ sở đó, xây dựng dàn bài chung làm yêu cầu về kiến thức để đánh giá nội dung bài nói của học sinh. 
 	 Bước 3: Yêu cầu cho bài nói của học sinh.
	Giáo viên nêu yêu cầu luyện nói chung để học sinh rõ (chỉ áp dụng cho tiết luyện nói đầu tiên, những tiết sau, bước này sẽ do học sinh tự nhắc lại trước lớp)
 	- Nội dung: Nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống nhất để trình bày theo ý cho hệ thống.
 	- Kỹ thuật nói: Trình bày rõ ràng, mạch lạc, nói thành câu trọn vẹn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp.
 	- Tác phong: Bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi, kết thúc phải có lời cảm ơn. 
 	 Bước 4: Bước chuẩn bị của học sinh trước khi nói.
 	Giáo viên dành thời gian khoảng 5 phút để học sinh chuẩn bị trình bày bài nói.
	Bước 5: Học sinh trình bày bài nói.
 	Để cho học sinh có điều kiện trình bày bài nói của mình một cách tự nhiên, hiệu quả, giáo viên nên lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài nói khác nhau.
 	- Trình bày bài nói theo từng phần: mở bài, thân bài, kết bài đến cả bài.
 	 	- Trình bày bài nói theo sự phân công của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của tổ nhóm trình bày trước, để học sinh yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị).
 	- Học sinh trình bày bài nói theo thứ tự luân phiên (Đa phần học sinh đều có thể trình bày bài nói).
 	- Học sinh trình bày bài nói theo yêu cầu dựa vào các mức độ khác nhau : giỏi, khá, trung bình, yếu.
	 Bước 6: Nhận xét, đánh giá.
	Nếu để cho học sinh thay phiên nhau lên trình bày bài nói của mình mà không có sự nhận xét, đánh giá, góp ý của thầy cô, bạn bè thì tiết luyện nói sẽ không có được tác dụng tích cực. Trong tiết luyện nói, học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực thì giáo viên phải thể hiện rõ vai trò của người chủ đạo, hướng dẫn. Trong tiết luyện nói người giáo viên thực sự trở thành một người dẫn chương trình gần gũi và thân mật với học sinh thì sẽ nâng cao hiệu quả tiết học.
 	Hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung cụ thể. Theo mẫu và duy trì trong suốt năm học.
Ngày  :
Môn   :
Họ và tên :
Phần nhận xét, đánh giá :
 - Tác phong nói :
 - Giọng nói   : 
 - Nội dung nói :
	 Giáo viên tổng hợp ý kiến từ học sinh, chỉ ra ưu, khuyết điểm cũng như mặt mạnh, mặt yếu của từng em để kịp thời phát huy và sửa chữa, uốn nắn.
 	Lời đánh giá của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, nhẹ nhàng, tế nhị; luôn tạo không khí thân ái, gần gũi để học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình được tự nhiên hơn. Giáo viên nên chọn ưu điểm nổi bật của từng học sinh và căn cứ theo từng mức độ: giỏi, khá, trung bình, yếu mà tuyên dương, động viên, khuyến khích. Nhất là sự tiến bộ của học sinh yếu (dù chỉ là sự tiến bộ rất nhỏ). Vì lời khen, chê của giáo viên không chỉ là động lực thúc đẩy sự cố gắng phấn đấu của học sinh mà còn là đòn bẩy, giúp giờ luyện nói thành công hơn.
 Tóm lại tuỳ thuộc vào điều kiện, mức độ của từng lớp, hoạt động của giờ luyện nói có thể có những hình thức khác nhau. Hình thức rất phong phú đa dạng. Điều quan trọng là phải nắm vững đặc trưng giờ luyện nói để đảm bảo yêu cầu một giờ học Ngữ văn trong nhà trường THCS.
4 . Định hướng dàn ý cho tiết luyện nói theo các biện pháp nêu trên.
	 Tiết 65 - Bài 13: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm.
         	Có thể chọn 1 trong 3 đề có ở sách giáo khoa phần luyện tập. Tôi chọn đề 3: Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đến chỗ trót đã qua rồi... Hãy đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.
          a. Yêu cầu: 
	Trước khi tiến hành luyện nói, giáo viên kiểm tra vở soạn của học sinh và các em trình bày dàn ý vào bảng phụ, sau đó giáo viên chốt lại và đưa ra bảng phụ mà giáo viên đã chuẩn  bị sẵn lên bảng đen cho học sinh theo dõi để luyện nói và hướng dẫn học sinh:
	Phải xác định ngôi kể cho phù hợp (Tôi)
	Phải hóa thân vào Trương Sinh kể lại câu chuyện theo trình tự
	Các nhân vật và các sự việc còn lại chỉ có vai trò như một cái cớ để nhân vật “tôi” giãi bày tâm trạng của mình.
	b. Dàn ý:
	b.1. Mở bài: Tự giới thiệu về mình, nêu mối quan hệ với Vũ Nương trong câu chuyện.
	b.2. Thân bài: Kể lại nội dung đoạn truyện (ngôi kể là ngôi thứ nhất: tôi – Trương Sinh). Trong quá trình kể có thể hiện sự hối hận của người kể.
Theo đặc trưng của ngôi kể thứ nhất (Đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật, chỉ kể những gì “tôi” biết, “tôi” chứng kiến”) giáo viên hướng dẫn học sinh cách sắp xếp sự việc sao cho logic mà vẫn vừa đảm bảo đúng đặc trưng của kể theo ngôi thứ nhất vừa vẫn không rơi vào thuật lại tác phẩm một cách đơn thuần.
	Ví dụ: Khi Trương Sinh đi lính người kể có thể nói qua vài nét về cuộc sống nơi chiến trận (như lời Vũ Nương trước đó từng lo lắng, dặn dò). Hoặc khi Trương Sinh không có nhà mọi chuyện có thể chỉ kể sơ qua, đến lúc anh ta trở về thì mới biết rõ ngọn ngành câu chuyện.
b.3. Kết luận: Trương Sinh suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương và ân hận về việc làm của mình.
5. Giáo án minh họa.
 Tiết 140 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
I. Mục tiêu cần đạt.
- HS củng cố kiến thức về cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
- Luyện kỹ năng nói và đặc biệt là nói trước tập thể một cách tự tin, rõ ràng, mạch lạc
II. Chuẩn bị.
Giáo viên: Chuẩn bị dàn ý chi tiết, bảng phụ
 Học sinh: - Học thuộc lòng bài thơ"Bếp lửa"
	 - Lập dàn ý theo đề bài đã cho
	 - Tập trình bày theo dàn ý đã chuẩn bị
III. Phương pháp.
- Thuyết trình
- Thảo luận nhóm
- Vấn đáp
IV. Tiến trình tổ chức hoạt động dạy - học.
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ.
- Kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS
3. Bài mới.
a. Vào bài.
	 Việc rèn luyện kỹ năng nói là vô cùng cần thiết đối với mỗi học sinh, nói thế nào cho rõ ràng, mạch lạc, sao cho có sức cuốn hút người nghe là cả một vấn đề. Để giúp các em có được kỹ năng đó chúng ta cùng thực hành luyện nói trong tiết học hôm nay.
b. Các hoạt động dạy - học.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ
NỘI DUNG KIẾN THỨC
Hoạt động 1:Kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh.
- Gv cho hs kiểm tra chéo sự chuẩn bị của nhau.
- Gv gọi hs đưa bài lên kiểm tra(7-10 em ) 
- Gv nhận xét sự chuẩn bị của hs.
Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh, phân tích đề, lập dàn ý
GV yêu cầu hs nhắc lại quy trình của một bài tập làm văn (hs trả lời, gv nhắc lại cho học sinh khắc sâu)
GV cho học sinh nhắc lại đề bài, gv ghi bảng.
GV:
+ Đề bài thuộc kiểu bài gì?
+ Dạng bài nghị luận cụ thể là gì ?
+ Đề yêu cầu nghị luận về vấn đề nào trong bài thơ ?
GV chốt :Về kiểu bài, dạng bài nghị luận về một đoạn thơ,bài thơ (gv ghi bảng phần phân tích đề)
Hướng dẫn hs lập ý:
+ Theo yêu cầu đề tài, phần mở bài ta phải làm gì?
+ Phần thân bài, để nghị luận về vấn đề đó trong bài thơ, em cần xây dựng hệ thống luận điểm như thế nào?
+Dùng những luận cứ, luận chứng nào?
(GV cho hs trao đổi nhóm, thảo luận sau đó ghi bảng phụ và trình bày ở bảng, các nhóm khác nhận xét, gv nhận xét về dàn ý và đưa ra dàn ý đại cương ở bảng phụ cho hs tham khảo và so sánh).
+Kết bài ra sao?
Hoạt động 3: Hướng dẫn hs tiến hành nói.
GV cho học sinh nói trong nhóm (5ph), nói trước lớp (10 ph).
GV hướng dẫn yêu cầu nói.
+ Nói trước nhóm: Đứng lên, mỗi em nói một phần theo qui định của tổ, cả tổ chú ý lắng nghe và chọn bạn nói tốt nhất đề xuất nói trước lớp.
+ Nói trước lớp cần chú ý:
  - Về hình thức: Có lời mở đầu (lời chào, giới thiệu) lời kết thúc (lời cảm ơn); lời nói rõ ràng, ngắn gọn, có ngữ điệu; chú ý quán xuyến đối tượng nghe.
 - Về nội dung: Đảm bảo nội dung trong dàn ý, ý mạch lạc.
+ Đối tượng nghe: Tập trung theo dõi bạn nói, nhận xét bạn nói theo yêu cầu trên.
Tiến hành nói: Sau 5 phút nói trong nhóm, gv cho hs nói trước lớp:
+ 2 em nói MB
+ 2 em nói TB
+ 2 em nói KB
+ 2 em nói cả bài
+ 2 em nói cho cả lớp nhận xét, so sánh, rút ra ưu điểm, hạn chế
+ HS đánh giá cho điểm theo mẫu.
+GV nhận xét chỉ ra ưu khuyết điểm bổ sung những ý còn thiếu sót 
Hoạt động 4: GV tổng kết tiết học.
  + Nhận xét về sự chuẩn bị của hs.
  + Về tiết luyện nói của hs: ưu điểm, tồn tại, cần khắc phục ở tiết sau...
Đề bài
      Bếp lửa sưởi ấm một đời – Bàn về bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt
I/ Phân tích đề
1.     Kiểu bài: Nghị luận về bài thơ
2.     Nội dung: Bếp lửa sưởi ấm một đời. (Bếp lửa từ trong kỉ niệm của tuổi thơ luôn sưởi ấm tâm hồn, nâng đỡ con người trên chặng hành trình dài của cuộc đời )
II/ Dàn ý đại cương
1.   1.  Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
- Khái quát giá trị của bài thơ và hình ảnh Bếp lửa
2.    
2. 2. Thân bài: Nghị luận về vấn đề trong bài thơ
a.    a. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho những cảm xúc về bà :
-Sự liên tưởng từ hình ảnh thân thương, ấm áp : Bếp lửa
- Bếp lửa của tuổi thơ nhọc nhằn gian khổ sống bên bà
b. Bếp lửa sưởi ấm tâm hồn tuổi thơ 
- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp
 - Bếp lửa gợi những liên tưởng tưởng tượng sâu xa, ý nghĩa.
c.Bếp lửa với những suy ngẫm về bà
-  Bà là người nhóm lửa, người giữ lửa .
- Ngọn lửa trở thành kỉ niệm thân thương , thành niềm tin thiêng liêng kì diệu .
- Ngọn lửa của tình yêu thương ,niềm tin nâng bước cháu trong suốt chặng đường dài của cuộc đời
d.Bếp lửa-hình tượng thơ đặc sắc :
-Vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng
3.  3.  Kết bài:
 - Khẳng định giá trị của hình tượng bếp lửa
- Suy nghĩ của bản thân về hình ảnh Bếp lửa
III/ Luyện nói
- Về hình thức: Có lời mở đầu (lời chào, giới thiệu) lời kết thúc (lời cảm ơn); lời nói rõ ràng, ngắn gọn, có ngữ điệu; chú ý quán xuyến đối tượng nghe.
 - Về nội dung: Đảm bảo nội dung trong dàn ý, ý mạch lạc.
4. Hướng dẫn chuẩn bị tiết sau.
  Ôn lại kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
 Chuẩn bị bài soạn văn bản "Những ngôi sao xa xôi".
6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng đối với học sinh lớp 9C tại trường THCS Hồng Minh huyện Phú Xuyên năm học 2017 -2018, với những cố gắng của tôi trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh tham gia phát biểu sôi nổi, có chiều hướng ham thích học môn văn hơn. Học sinh có tinh thần tập thể cao, có tinh thần tự giác, ý thức được việc học tập. Với biện pháp thực hiện trên giúp học sinh mạnh dạn hơn khi nói trước đám đông, có thói quen tốt trong việc học. Và cũng giúp cho những em học yếu, lười không còn ỷ lại trông chờ vào những em học khá. Từ em khá đến em yếu đều có thể nói được trước lớp. ( Mặc dù có một thực tế là học sinh càng lớn lên các em càng ngại nói, ngại phát biểu trước tập thể. thậm chí có nhiều người ngay cả khi đã trở thành cán bộ công chức từng giữ chức vụ quan trọng trong một cơ quan nào đó, vẫn ít khi dám nói trước tập thể hoặc có nói cũng rất khó khăn, lúng túng, không mạch lạc rõ ràng ). Thường xuyên luyện nói sẽ có được lợi thế không chỉ bây giờ khi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường mà còn cả sau này khi các em tham gia công tác ngoài xã hội.
Kết quả so sánh đối chiếu:
Kết quả đầu năm học 2016- 2017
Kết quả cuối năm học 2017- 2018
Phần lớn học sinh rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông để luyện nói.
Đa số học sinh mạnh dạn, tự tin và có thái độ cởi mở trong tiết luyện nói.
Không khí lớp học nặng nề, thiếu sôi nổi, học sinh ngại học những tiết luyện nói.
Không khí lớp học hào hứng, sôi nổi, học sinh thích được học những tiết luyện nói hơn.
Khi trình bày các em ngập ngừng, ấp úng, nội dung không trọn vẹn, đầy đủ, bài nói thiếu hoàn chỉnh.
Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo và được rèn luyện nhiều nên khi trình bày các em không còn ngập ngừng, ấp úng, nội dung diễn đạt trọn vẹn và đầy đủ hơn. Do đó đa số bài nói đều hoàn chỉnh hơn trước.
Kĩ năng nói hạn chế, chưa biết kết hợp các yếu tố phi ngôn ngữ.
Kĩ năng nói của học sinh có sự tiến bộ: Biết chào khi mở đầu và kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói trôi chảy, diễn đạt lưu loát, biết dùng nét mặt, cử chỉ, âm lượng tham gia thể hiện nội dung bài nói.
 10/43 hs đạt yêu cầu của tiết luyện nói
35/43 hs đạt yêu cầu của tiết luyện nói
Qua kết quả trên cho thấy khi áp dụng sáng kiến có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Điều đó cũng đã khẳng định một phần tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã đưa ra và áp dụng. Trong năm học tới tôi sẽ mở rộng áp dụng sáng kiến trên đây cho tất cả các lớp mà tôi đang giảng dạy, hy vọng sẽ tạo được bước chuyển biến cao hơn về khả năng nói của các em học sinh trong kiểu bài luyện nói ở phân môn Tập làm văn. 
III. Kết luận và khuyến nghị.
Kết luận. 
Bài học kinh nghiệm mà tôi rút ra được từ quá trình nghiên cứu và vận dụng như sau:
	a. Về giáo viên:
	Muốn  thực hiện đạt yêu cầu việc luyện nói cho học sinh giáo viên cần:
	- Đầu tư vào bài soạn, nghiên cứu kỹ để có c

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_gop_phan_nang_cao_hieu_qua_cua_tiet_lu.doc