Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS

2. Đối tượng nghiên cứu :

 Đối tượng nghiên cứu : Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh học cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn lớp 6 là học sinh lớp 6A1 trường THCS Nguyễn Tri Phương năm học 2010 – 2011.

 3. Phạm vi nghiên cứu :

 - Được nhà trường phân công giảng dạy lớp 6A1, 6A2, 6A3 từ đầu năm học, tôi nhận thấy tình hình viết bài Tập làm văn của các em còn hạn chế về cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài văn tự sự, đặc biệt là học sinh lớp 6A1 nên tôi tìm cách nghiên cứu giải pháp Hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn lớp 6.

 - Trong phạm vi giải pháp này, tôi chỉ đề cập đến các tiết Tập làm văn ở kiểu văn bản tự sự của sách giáo khoa Ngữ văn 6.

 

doc 25 trang phuongnguyen 29/07/2022 18920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS
KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH 
PHÂN ĐOẠN PHẦN THÂN BÀI KHI LÀM BÀI VĂN TỰ SỰ 
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 
Ở LỚP 6A1 TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRI PHƯƠNG
A.MỞ ĐẦU :
 1. Lý do chọn đề tài :
 Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở : góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn ; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . 
 Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn : Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói : “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói ”( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973 ).
 Chúng ta đã biết môn Tập làm văn là một môn khó, khô khan, muôn hình vạn trạng vì các em học sinh không đủ vốn từ để làm một bài Tập làm văn, không biết là nó bắt đầu từ đâu và kết thúc như thế nào, không nắm được đặc trưng của từng thể loại.
 Tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn- Tiếng Việt. Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Tiếng Việt dạy cho các em cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, sử dụng các biện pháp tu từ. Văn học giúp các em có đủ khả năng hiểu, phân tích một vấn đề, cảm nhận cái hay, cái đặc sắc của tác phẩm, rèn cho các em biết cảm xúc rung động trước cái đẹp của ngôn từ. Vì vậy, phân môn Tập làm văn có tốt hay không là cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, phân đoạn. Nội dung có cảm xúc hay không là kết quả học tập và rèn luyện của hai phân môn Văn học và Tiếng Việt. 
 Nhưng học tốt Văn học và Tiếng Việt chưa chắc đã làm tốt một bài Tập làm văn nếu các em không nắm được các bước cơ bản khi tiến hành một bài Tập làm văn đó là những bước gì. Mỗi bước có điểm gì cần lưu ý. Đặc biệt hơn, cái sai lớn nhất của các em là không biết phân đoạn, cách trình bày đoạn văn như thế nào cho phù hợp. Đó là vấn đề mà các em chưa thực sự quan tâm lắm. 
 Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy các em chưa biết lập dàn bài, dựng đoạn 
( ở phần Thân bài trong các kiểu văn bản thường chỉ có một đoạn văn ) trước khi bước vào khâu viết văn bản. Thế là nhớ đâu viết đó, viết lan man không chủ đích dẫn đến quên ý, ý nọ xọ ý kia, bài văn không nhất quán, không làm nổi bật một nội dung nào đó.
 Với Tập làm văn cái đích đó là kĩ năng nói, viết theo chuẩn văn hóa trung bình từng cấp về từng kiểu loại văn bản. Ở Tiểu học, có thể chỉ là tập nói đúng, viết đúng những câu, những bài nói, bài viết ngắn gọn phù hợp ở mức ban đầu. Ở cấp THCS, ngôn ngữ, vốn sống, tư duy đã phát triển, việc tập nói, tập viết đã có thể hướng tới văn bản tương đối hoàn chỉnh với tính cách thể loại tương đối rõ để đáp ứng nhu cầu giao tiếp trong đời sống sẽ hòa nhập trong tương lai gần ( ở độ tuổi trưởng thành ).
 Như vậy chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản.
 Đó là tất cả những điều mà tôi thật sự quan tâm trước thực trạng dạy và học phân môn Tập làm văn hiện nay.Vì thế, tôi quyết định chọn giải pháp : Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS.
 2. Đối tượng nghiên cứu :
 Đối tượng nghiên cứu : Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh học cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn lớp 6 là học sinh lớp 6A1 trường THCS Nguyễn Tri Phương năm học 2010 – 2011.
 3. Phạm vi nghiên cứu : 
 - Được nhà trường phân công giảng dạy lớp 6A1, 6A2, 6A3 từ đầu năm học, tôi nhận thấy tình hình viết bài Tập làm văn của các em còn hạn chế về cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài văn tự sự, đặc biệt là học sinh lớp 6A1 nên tôi tìm cách nghiên cứu giải pháp Hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn lớp 6.
 - Trong phạm vi giải pháp này, tôi chỉ đề cập đến các tiết Tập làm văn ở kiểu văn bản tự sự của sách giáo khoa Ngữ văn 6.
 4. Phương pháp nghiên cứu :
 Thực hiện giải pháp này tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu :
 1. Phương pháp đọc tài liệu :
 - Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
 - Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
 -Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS
 - Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn – 
 Nhà xuất bản Giáo dục 
 - Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6 –Cao Bích Xuân – Nhà xuất bản Giáo dục.
 2. Phương pháp đàm thoại :
 - Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của học sinh về việc học, về sự yêu thích bộ môn, về hoàn cảnh gia đình,  qua việc gần gũi, thăm hỏi trong 15 phút đầu giờ, giờ giải lao, sinh hoạt chủ nhiệm.
 3. Phương pháp kiểm tra :
 - Kiểm tra việc học Tập làm văn của học sinh ở đầu năm, thống kê kết quả .
 4. Phương pháp so sánh, đối chiếu :
 - Dự giờ các bạn đồng nghiệp trong tổ, xem xét tình hình học tập của học sinh về cách thực hành viết bài văn tự sự để bản thân rút ra ưu, khuyết điểm của việc dạy học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bàiVăn tự sự ở lớp 6.
B. NỘI DUNG :
 1. Cơ sở lý luận :
 Luật Giáo dục năm 2005, Điều 2 đã xác định : Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Như vậy, mục tiêu giáo dục phổ thông đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã được đổi mới theo hướng “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.( Luật Giáo dục năm 2005, Điều 5 ) 
 Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT đã nêu : 
“ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
 Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
 Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
 Việc vận dụng kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự phân môn Tập làm văn lớp 6 nhằm giúp cho học sinh có thói quen viết trong môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những chủ đề quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
 2. Cơ sở thực tiễn :
 Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ văn là một môn học trang bị cho học sinh những tri thức để đánh giá đúng các vấn đề văn học (bao gồm: tác phẩm, tác giả, các quá trình văn học,) có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả năng biết đánh giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng.
 Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh văn bản mới ( nói và viết ).
 Tập làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp học sinh hình thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn. Người học sinh từ tiểu học đến trung học ( kể cả vào đại học ) đã và sẽ được làm văn theo ba dạng sau đây :
 Dạng sáng tác văn học như : miêu tả, tường thuật, kể chuyện ( tự sự ) và một số thể thơ quen thuộc như : thơ năm chữ, thơ tứ tuyệt, thơ lục bát,
 Dạng bài nghị luận với hai nội dung chủ yếu là nghị luận xã hội và nghị luận văn học ( trong chương trình THCS ở lớp 7,8,9).
 Dạng văn hành chính công vụ như đơn từ, biên bản, thông báo, báo cáo, hợp đồng. 
 Đặc trưng cơ bản của nhóm thứ nhất là kích thích trí tưởng tượng phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh. Đặc trưng của nhóm thứ hai là nhằm hình thành và phát triển tư duy lí luận với khả năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Loại văn hành chính công vụ thì có đặc trưng là khuôn mẫu, công thức.
 Trong nhà trường phổ thông, nhìn chung không đặt ra việc sáng tác văn học. Tuy nhiên để phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS được làm quen với kiểu sáng tác tạo tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong quá trình học sau này.
 Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách, chân thật, có những khám phá hồn nhiên về đời sống gia đình, xã hội.
 Trong chương trình Ngữ văn THCS ở lớp 6 học sinh được học văn tự sự trong cả Học kì I. Tuy học sinh đã học văn tự sự ở lớp 4 Tiểu học gần như hết một học kì nhưng nhiều lí do các em làm loại văn này chưa tốt nhất là phần Thân bài, thường các em chỉ viết có một đoạn văn. Không chỉ ở học sinh lớp 6 mà ngay cả học sinh lớp 7,8,9 khi làm một bài Tập làm văn khi viết phần Thân bài các em thường chỉ viết có một đoạn văn. Đó là điều mà tôi trăn trở trong quá trình dạy học nhất là dạy học sinh làm một bài Tập làm văn.
 Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường).Hay và đúng có quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết đúng theo yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách,
 Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần : Mở bài, Thân bài và Kết bài. Muốn thế người viết không phải chỉ chú ý đến nội dung mà cả hình thức cũng phải rõ.
 Yêu cầu là vậy nhưng trong thực tế dạy - học tôi thấy bài văn của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu đó là bao.Bài làm của các em vẫn còn hiện tượng : đoạn văn còn sai quy cách, giữa các đoạn chưa có sự liên kết.
 Về phía giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ giúp các em nắm bắt những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá trình dạy chỉ dạy văn tự sự ở những tiết học Tập làm văn, chưa tận dụng được thời gian ở phân môn Văn học, Tiếng Việt để tích hợp với phần Tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài. Đến năm học 2008-2009, tôi đã nghiên cứu và thực hiện giải pháp hướng dẫn học sinh các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập một văn bản tự sự. Và năm học 2009-2010, tôi lại tiếp tục nghiên cứu thực hiện giải pháp hướng dẫn học sinh học tốt tiết luyện nói. Qua hai năm thực hiện, chất lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, bài viết của các em vẫn chưa đạt yêu cầu ở phần Thân bài : thường chỉ viết có một đoạn. Đó là điều trăn trở của tôi nhất là khi nhận dạy Ngữ văn lớp 6 mà trong đó lại có một lớp 38/38 học sinh có kết quả học tập khá giỏi từ Tiểu học lên. Vậy làm thế nào để học sinh viết được một bài văn tự sự đúng và hay ?
 Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, một số em ngoài giờ học còn phải phụ gia đình nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham khảo, mở rộng hiểu biết, ít có điều kiện cũng như thời gian luyện tập. 
 Do đó, tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt nhất giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự ngay từ những ngày đầu tiếp cận với chương trình Ngữ văn cấp THCS, nhất là biết cách phân đoạn phần Thân bài. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã tìm cho mình một số cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện nay.
 Vì thế, theo tôi việc vận dụng kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn lớp 6 là một yêu cầu thiết yếu. Nhưng làm như thế nào và bằng cách nào để yêu cầu đạt hiệu quả ? Đây là vấn đề tôi muốn đề cập trong giải pháp nhỏ này.
 3. Nội dung vấn đề :
 3.1. Vấn đề đặt ra :
 * Đối với giáo viên : 
 Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư tưởng của các em.
 Giáo viên không chỉ đóng vai trò là người truyền đạt tri thức mà phải là người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tòi, khám phá, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Giáo viên phải có năng lực đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ kiểu dạy tập trung vào vai trò của học sinh và hoạt động học, từ cách dạy thông báo - giải thích - minh họa sang cách dạy hoạt động tìm tòi khám phá.
 Việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn.
 Trong thực tế giảng dạy môn Tập làm văn lớp 6 ở trường THCS hiện nay đặt trọng tâm ở thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết và thực hành làm văn bản. Do đó điểm mới và khó trong chương trình là phương pháp dạy thực hành.
 Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng các em tới nhu cầu thẩm mỹ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mỹ khi làm một bài văn tự sự.
 Tập làm văn là một phân môn khó, đặc biệt yêu cầu về kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải dày công, kiên trì dạy các em. Là phân môn có tính thực hành cao nên giáo viên cần rèn cho học sinh nắm vững lí thuyết để vận dụng vào thực hành đạt kết quả. 
 * Đối với học sinh :
 Để việc làm một bài Tập làm văn đạt chất lượng, bản thân học sinh cũng cần phải :
 - Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn. 
 - Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân ; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn. 
 - Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm học tập của bản thân và bạn bè. 
 Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn tự sự, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của giáo viên.
 3.2. Giải pháp chứng minh vấn đề được giải quyết :
 3.2.1 Các bước chuẩn bị :
 Để tiết dạy thành công thì khâu chuẩn bị bài là hết sức quan trọng. Trước khi lên lớp, giáo viên cần làm các việc sau :
 - Làm tốt khâu soạn giảng : Đối với bài học môn Tập làm văn lớp 6 đặt trọng tâm là thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết, thực hành làm văn bản. Với từng kiểu bài, giáo viên phải định hướng mục đích yêu cầu của bài, nghiên cứu từng phần cụ thể để đưa vào những bài tập rèn viết văn tự sự thích hợp.
 - Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập : Phải chú ý hệ thống câu hỏi – bài tập nhằm tạo điều kiện tốt nhất để học sinh không chỉ trả lời, tranh luận với giáo viên mà còn được trao đổi, tranh luận với bạn học để tìm ra chân lí ( không gò ép). Điều quan trọng là xây dựng kế hoạch hoạt động của giờ học, hệ thống câu hỏi – bài tập và lựa chọn cách kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh nhằm kích thích tính chủ động, sáng tạo. 
 - Chuẩn bị tốt đồ dùng, thiết bị : Chú ý lựa chọn những đồ dùng, thiết bị cần thiết phù hợp với từng tiết dạy. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị thích hợp sẽ làm cho giờ học sinh động, học sinh hứng thú hơn khi tiếp xúc với những kiến thức bổ trợ trực quan, tích cực khai thác nội dung học tập, làm
cho lao động của giáo viên trên lớp nhẹ nhàng hơn, tập trung hơn và hiệu quả hơn.
 3.2.2. Phương pháp giảng dạy :
 Như chúng ta đã biết, thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bộc lộ những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời thông qua các bài tập để rèn cho học sinh kĩ năng viết bài văn tự sự được tốt hơn. Để đạt được hiệu quả mong muốn người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức có sẵn trong giáo án mà còn phải có sự sáng tạo khi lên lớp, phải giữ chuẩn mực đúng phong cách sư phạm.
 Trong phân môn Tập làm văn lớp 6 ở Học kì I tập trung vào các kiến thức văn bản tự sự :
 1. Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt
 2. Tìm hiểu chung về văn tự sự
 3. Sự việc và nhân vật trong văn tự sự
 4. Chủ đề và dàn bài văn tự sự
 5. Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự
 6. Lời văn, đoạn văn tự sự
 7. Thứ tự kể trong văn tự sự
 8. Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự
 9. Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường
 10. Kể chuyện tưởng tượng
 Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự tôi chỉ hướng dẫn học sinh các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập một văn bản tự sự chủ yếu phần Thân bài như : kể chuyện dân gian, kể chuyện đời thường, kể chuyện tưởng tượng. Cụ thể là đi sâu các kiến thức văn bản tự sự ở Học kì I. 
 Bên cạnh đó phải tích hợp các kiến thức được học về truyện kể dân gian, truyện trung đại phần Văn học và biết lựa chọn từ ngữ, sử dụng từ có chọn lọc phần Tiếng Việt.
 Tất nhiên các kiến thức thuộc văn bản tự sự được học trong Học kì I học sinh cũng phải nắm được mới làm tốt một bài văn tự sự và sẽ được kiểm chứng qua tiết luyện nói, tiết làm bài viết.
 *Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức :
 Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế đã làm, tôi xin trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau :
 a/ Hình thành những chuẩn mực cần phải đạt đến khi viết một đoạn văn tự sự.
 Khi viết bài Tập làm văn học sinh phải biết lập dàn ý, mỗi ý lớn trong dàn ý sẽ viết ít nhất là một đoạn văn.
 Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo nên.
 Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa ) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
 Các câu còn lại trong đoạn văn ( không phải là câu chủ đề ) là câu triển khai có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ câu chủ đề của đoạn văn bằng các cách diễn đạt : diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng-phân-hợp.
 Khi viết đoạn văn phải chú ý đến câu chủ đề. Mỗi ý trong bố cục lớn sẽ được triển khai thành một đoạn theo nhiều cách (diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng-phân-hợp ).Sử dụng từ ngữ gợi tả, biện pháp tu từ hợp lí, câu đủ chủ-vị, các câu liên kết chặt chẽ với nhau. Đoạn văn trình bày đúng quy cách.
 Nội dung của các đoạn phần Thân bài đều phải hướng vào một mục đích cần làm sáng rõ được nêu ra ở Mở bài, phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau qua các từ ngữ, câu liên kết.
 Những căn cứ để phân đoạn :
 Có hai căn cứ để tách đoạn văn : 
 - Bố cục của văn bản : Thường chia làm ba đoạn :
 + Đoạn văn làm phần Mở bài : Nêu đối tượng được nói đến, nhiệm vụ của đề tài. Đó cũng chính là cơ sở và phương hướng để triển khai đề tài và qua đó mà xác lập mục tiêu cần đạt được đến của văn bản.
 + Đoạn văn ( hay nhiều đoạn văn ) làm phần Thân bài : Trình bày, giải thích,  nội dung của đề tài, theo hướng nhiệm vụ đã đề ra. Thân bài phải thực hiện vừa đủ ( không thiếu, không thừa ) những nhiệm vụ đề ra ở phần Mở bài, hướng vào mục đích cần đạt đến của văn bản.
 + Đoạn văn làm phần Kết bài : Nhận xét chung về đề tài hoặc nhiệm vụ của đề tài ( như giá trị, công dụng, ảnh hưởng, tầm quan trọng,), đánh giá kết quả đạt được, gợi mở những hướng xem xét khác, 
 - Những biến đổi trong quan hệ nội dung giữa các đoạn văn :
 Sau đây là bốn nội dung quan hệ thường gặp :
 + Đề tài : Quan hệ giữa các vật, việc, hiện tượng khác nhau : mỗi vật, việc, hiện tượng đó được tách thành một đoạn văn.
 + Không gian : Quan hệ giữa các điểm, hướng không gian của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi điểm, hướng không gian của nó được tách thành một đoạn văn.
 + Thời gian : Quan hệ giữa các thời điểm, thời hạn của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi thời điểm, thời hạn của nó được tách thành một đoạn văn.
 + Phương diện của đề tài : Quan hệ giữa các mặt, các đặc điểm, các tác dụng khác nhau của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi mặt, mỗi đặc điểm, mỗi tác dụng của một đề tài được tách thành một đoạn văn.
 Ở bài văn tự sự phần Thân bài ít nhất từ hai đến ba đoạn.
 Văn tự sự ở lớp 6, học sinh chỉ được học một tiết về đoạn văn : 
Tiết 20- Lời văn, đoạn văn tự sự.
 Để học sinh có được những chuẩn mực về đoạn văn vừa nêu trên tôi mạnh dạn đầu tư vào tiết 20. Ở tiết này, học sinh :
 - Hiểu đoạn văn tự sự : gồm một số câu, được xác định giữa hai dấu chấm xuống dòng.
 - Biết viết đoạn văn, bài văn tự sự.
 Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đoạn văn bằng Hoạt động 3 khi dạy trên lớp và chú ý phần Luyện tập ở bài tập 1. 
 Minh họa :
 *Tiết 20 – Lời văn, đoạn văn tự sự 
*Hoạt động 3:Hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn văn tự sự .
 .Cho HS đọc lại ba đoạn văn( máy chiếu ) 
 ? Hãy cho biết mỗi đoạn văn biểu đạt ý chính nào?Gạch dưới câu biểu đạt ý chính? Tại sao người ta gọi đó là câu chủ đề ?
 0. Thảo luận theo nhóm cùng bàn (2 phút) và trình bày :
 - Đoạn 1 : Vua Hùng kén rể 
 - Đoạn 2 : Hai thần đến cầu hôn 
 - Đoạn 3 : Thuỷ Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh .
 - Câu chủ đề : diễn đạt ý chính của đoạn văn .
 0 . Nhận xét, góp ý .
 . Chốt ý.
 . Gọi HS đọc Ghi nhớ SGK/59
 0. 2 em đọc Ghi nhớ 
*Hoạt động 4:Hướng dẫn HS luyện tập
 .Cho HS đọc bài tập 1
 0. Đọc và xác định yêu cầu
 0.Thảo luận theo 6 nhóm (3 phút) và cử đại diện trình bày :
 - Nhóm 1,2 : đoạn a. 
 - Nhóm 3,4 : đoạn b. 
 - Nhóm 5,6 : đoạn c.
 0. Nhận xét, bổ sung 
 Chốt ý.(máy chiếu)
 3. Đoạn văn : 
 Mỗi đoạn văn thường có một ý chính, diễn đạt thành một câu gọi là câu chủ đề.
 Các câu khác diễn đạt những ý phụ dẫn đến ý chính đó hoặc giải thích cho ý chính, làm cho ý chính nổi lên.
II.Luyện tập:
 Bài tập 1:
 Qua tiết học, học sinh đã hiểu đoạn văn tự sự : gồm một số câu, được xác định giữa hai dấu chấm xuống dòng; biết tìm ý chính của mỗi đoạn trong một văn bản tự sự đã học, tìm đúng câu chủ đề và thứ tự triển khai các câu chủ đề trong một đoạn văn.
 b/ Chú trọng việc luyện viết đoạn văn phần Thân bài của học sinh ngay từ đầu năm học trong tất cả các giờ dạy Tập làm văn.
 Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm bài văn tự sự, tôi đã hướng dẫn cho các em trong một số tiết dạy Tập làm văn sau :
 * Tiết 11- Sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
 Khi dạy tiết này, ở Hoạt động 1: Tìm hiểu đặc điểm của sự việc trong văn tự sự, sau khi học sinh từ văn bản mẫu “Sơn Tinh, Thủy Tinh” đã hiểu được vai trò của sự việc trong văn tự sự, tôi đặt câu hỏi phát vấn học sinh:
 ? Ở từng sự việc khi kể lại em sẽ viết thành một đoạn văn như thế nào?
 HS: có thể dựa vào văn bản “Sơn Tinh, Thủy Tinh” trình bày một vài đoạn văn thích hợp với các sự việc được nêu.
 Sau đó, tôi cho học sinh quan sát ví dụ minh họa ở bảng phụ (một vài sự việc cho học sinh bước đầu hiểu được một sự việc có thể viết thành một đoạn văn)
Sự việc
Đoạn văn
(1) Vua Hùng kén rể
 Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
(2)Sơn Tinh, Thủy Tinh đến cầu hôn.
 Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ []. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài năng cũng không kém []. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. [], cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
(3)Vua Hùng ra điều kiện chọn rể.
 Vua Hùng băn khoăn [].Vua phán : “Hai chàng đều vừa ý ta []. Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo : “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.”
 Xong, tôi chuyển sang các Hoạt động khác trong tiết dạy.
 * Tiết 14- Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự.
 Dạy bài này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài khi chốt ý ở Bài tập 1 câu c.
 Minh họa ( giáo án tiết 14 )
 Hoạt động của giáo viên và học sinh
 Nội dung bài học
*Hoạt động 3:Hướng dẫn HS luyện tập.
 .Cho HS đọc bài tập 1.
 0. Đọc truyện Phần thưởng .
 - Câu a :
 0.Đọc, xác định yêu cầu và trả lời 
 .Chốt ý 
 - Câu b :
 0. Đọc và xác định yêu cầu và trình bày 
 .Chốt ý 
- Câu c :
 0. Đọc và xác định yêu cầu 
 0.Thảo luận theo nhóm cùng bàn (3 phút) và cử đại diện trình bày 
 0. Nhận xét, bổ sung 
 Chốt ý ( bảng phụ )
 . Giảng giải thêm cho HS :
 - Chủ đề của bài văn tự sự : có khi được nói ra(Tuệ Tĩnh ), có khi không trực tiếp nói ra ( Phần thưởng ).
 - Các sự việc phải thích hợp với chủ đề.
 - Bố cục thường có ba phần : Có nhiều cách Mở bài ( Đọc thêm : SGK/47) và Kết bài : Sự việc kết thúc
 ( Phần thưởng ), sự việc tiếp tục ( Tuệ Tĩnh).
II. Luyện tập :
 Bài tập 1:SGK/45,46
 a) Chủ đề của truyện :
 - Biểu dương : người nông dân thông minh, nhanh trí .
 - Chế giễu : tên cận thần tham lam .
 Sự việc tập trung vào chủ đề :
 Việc người nông dân xin thưởng năm mươi roi và đề nghị chia đôi phần thưởng đó .
 b) Ba phần của truyện :
 - Mở bài : câu 1
 - Thân bài : từ “ Ông ta tìm đến  hai mươi nhăm roi .”
 - Kết bài : câu cuối 
 c) So sánh truyện Phần thưởng với truyện Tuệ Tĩnh :
 ( bảng phụ )
Bảng phụ
Nội dung so sánh
Truyện Phần thưởng
Truyện Tuệ Tĩnh
- Về bố cục
 + Mở bài 
 + Thân bài
 + Kết bài
 Giới thiệu tình huống.
 Nói rõ ngay chủ đề.
 - Tìm vua dâng ngọc.
 - Quan đòi chia phần thưởng.
 - Xin thưởng roi.
 - Tuệ Tĩnh từ chối chữa bệnh cho người nhà giàu đến trước vì ông ta bệnh nhẹ
 - Tuệ Tĩnh chữa ngay cho con trai người nông dân vì bệnh chú bé nguy hiểm hơn.
 - Viên quan bị đuổi ra.
- Người nông dân được thưởng.
 Tuệ Tĩnh lại bắt đầu một cuộc chữa bệnh mới.
 - Về chủ đề
 Tố cáo tên cận thần tham lam bằng cách chơi khăm một vố.
Hết lòng thương yêu cứu giúp người bệnh.
 Sau khi cho học sinh quan sát phần chốt ý ở bảng phụ, tôi cũng phát vấn học sinh :
 ? Phần Thân bài của truyện Phần thưởng có mấy sự việc và được trình bày bằng mấy đoạn văn?
 HS: Truyện Phần thưởng có ba sự việc trong phần Thân bài, mỗi sự việc viết thành một đoạn văn.
 ? Phần Thân bài của truyện Tuệ Tĩnh có mấy sự việc và được trình bày bằng mấy đoạn văn?
 HS: Truyện Tuệ Tĩnh có hai sự việc trong phần Thân bài, mỗi sự việc viết thành một đoạn văn.
 GV: Các em cần chú ý trong văn bản tự sự phần Thân bài thường trình bày một sự việc bằng một đoạn văn.
 * Tiết 15- Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự.
 Trong bài này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài ở Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn tự sự.
 Minh họa ( giáo án tiết 15 )
 Hoạt động của giáo viên và học sinh
 Nội dung bài học
*Hoạt đông2:Hướng dẫn HS cách làm bài văn tự sự .
 .Ghi đề bài lên bảng, cho HS đọc đề và xác định yêu cầu của đề .
 ?Việc trước nhất khi làm bài văn tự sự là gì?
 0. Tìm hiểu đề văn tự sự : là tìm hiểu kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài .
 Gọi HS nêu tên truyện mà em sẽ kể .
 0.Tên truyện : Thánh Gióng ; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh ; Bánh chưng, bánh giầy ; 
 . .Cho HS chọn truyện Thánh Gióng để thực hành .
 0. Dựa vào gợi ý SGK/48, tiến hành lập ý theo nhóm đôi ( 3 phút )
 0. Đại diện các nhóm trình bày 
 0. Nhận xét, bổ sung 
 . Chốt ý .
 ?. Lập ý là làm gì ?
 0. Nêu ý 2- Ghi nhớ SGK
 Cho HS xác định truyện bắt đầu từ đâu, kết thúc ở chỗ nào .
 0. Bắt đầu : Đứa bé nghe sứ giả rao tìm người đánh giặc 
 Kết thúc : Vua nhớ công ơn  lập đền thờ ngay ở quê nhà .
 . Gợi ý cho HS lập dàn ý chung 
 0. Thảo luận theo nhóm cùng bàn (5 phút) và trình bày .
 0. Nhận xét, bổ sung . 
 . Kết luận ( bảng phụ - SGV/97)
 ?. Em hiểu thế nào là viết “bằng lời văn của em”? 
 0. Có nghĩa là em tự chọn từ, đặt câu, diễn ý theo dàn ý đã lập. Không sao chép từ nguyên bản câu chuyện hoặc từ một tài liệu có sẵn.
*GV: Nêu câu hỏi gợi ý cho học sinh cách phân đoạn phần Thân bài Văn tự sự.
 ?.Em hãy chọn một sự việc trong phần Thân bài để viết thành một đoạn văn ?
 0.Một vài em có thể nêu miệng một đoạn văn thích hợp với một sự việc ở phần Thân bài.
 .Chốt ý : Thân bài của một bài văn tự sự có thể viết thành nhiều đoạn văn thích hợp với các sự việc đã diễn ra.
 2. Cách làm bài văn tự sự :
 Đề bài : Kể một câu c

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_cach_ph.doc