Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA

Sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trên con đường hội nhập đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Giáo dục phải có chuyển biến mới để đào tạo ra lớp người lao động năng động, sáng tạo, có khả năng hành động trên cơ sở nền học vấn vững chắc; đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện đại, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa đối với học sinh hơn so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ.

Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại.

 Ngoài ra, chương trình hiện tại của Việt Nam còn có phần trùng lặp giữa các môn học và đó là một trong những nguyên nhân làm cho chương trình quá tải. Vì thế, tích hợp có thể sẽ góp phần làm giảm nhẹ chương trình môn học, giảm phần trùng lặp giữa các môn, đồng thời còn có tác dụng bổ sung, liên kết tri thức giữa các môn.

 Qua thực tế dạy học nhiều năm, tôi thấy việc tích hợp kiến thức giữa các môn học để giải quyết một vấn đề nào đó trong một bộ môn là việc làm hết sức cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên giảng dạy bộ môn không những phải nắm bắt nhuần nhuyễn kiến thức bộ môn mình giảng dạy, mà còn cần phải không ngừng trau dồi kiến thức của những môn học khác, để giúp các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.

 

docx 64 trang quyettran 13/07/2022 21160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA
SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ
BÁO CÁO KẾT QUẢ
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
“Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA”
 Tác giả sáng kiến: Dương Thị Thu Hằng
 Mã lĩnh vực: 12.58
 Vĩnh Phúc, năm 2020
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ cần viết tắt
Chữ cái viết tắt
Giáo dục
GD
Dạy học
DH
Giáo viên
GV
Học sinh
HS
Sách giáo khoa
SGK
Nhà xuất bản giáo dục
NXB GD
Dạy học tích hợp
DHTH
Trung học phổ thông
THPT
Phương pháp dự án
PPDA
Dạy học dự án
DHDA
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu: 
Sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trên con đường hội nhập đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Giáo dục phải có chuyển biến mới để đào tạo ra lớp người lao động năng động, sáng tạo, có khả năng hành động trên cơ sở nền học vấn vững chắc; đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện đại, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa đối với học sinh hơn so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ. 
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. 
 	Ngoài ra, chương trình hiện tại của Việt Nam còn có phần trùng lặp giữa các môn học và đó là một trong những nguyên nhân làm cho chương trình quá tải. Vì thế, tích hợp có thể sẽ góp phần làm giảm nhẹ chương trình môn học, giảm phần trùng lặp giữa các môn, đồng thời còn có tác dụng bổ sung, liên kết tri thức giữa các môn.
 	Qua thực tế dạy học nhiều năm, tôi thấy việc tích hợp kiến thức giữa các môn học để giải quyết một vấn đề nào đó trong một bộ môn là việc làm hết sức cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên giảng dạy bộ môn không những phải nắm bắt nhuần nhuyễn kiến thức bộ môn mình giảng dạy, mà còn cần phải không ngừng trau dồi kiến thức của những môn học khác, để giúp các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. 
2. Tên sáng kiến: 
“Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề: LIÊN BANG NGA”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Dương Thị Thu Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Thị Trấn Lập Thạch – Huyện Lập Thạch - Tỉnh Vĩnh Phúc 
- Số điện thoại: 0979066351 - Email: hoatamgui.0812@gmail.com
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : 
- Tác giả cùng với sự hỗ trợ của Trường THPT Ngô Gia Tự về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật trong quá trình viết sáng kiến và dạy thực nghiệm sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 
- Dạy học Địa lí ở bậc THPT. Đặc biệt “Chủ đề: Liên Bang Nga”.
- Qua đề tài này cũng có thể lập dàn ý với các đề tài khác tương tự ở các bài khác với cấu trúc, dàn ý như vậy.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 
- Ngày 8 tháng 12 năm 2015
7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 
PHẦN 1: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Quan niệm về dạy học theo xu hướng tích hợp
I.1. Khái niệm “tích hợp”
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. 
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Tích hợp là xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. Dạy học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học được nhiều nước trên thế giới thực hiện.
Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. 
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. 
I.2. Đặc điểm của dạy học tích hợp
DHTH là một quan điểm lý luận dạy học, hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học
I.2.1. Lấy người học làm trung tâm
Dạy học lấy người học làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục nhất là đối với giáo dục nghề nghiệp, có khả năng định hướng việc tổ chức quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân hóa người học. Dạy học lấy người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, họ phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn, cụ thể và sinh động của nghề nghiệp rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá học để hành, hành để học, tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân.
Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm, hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào giải quyết vấn đề.
Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ động nổ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình.
 	Quan hệ giữa người dạy và người học được thực hiện dựa trên cơ sở tin cậy và hợp tác với nhau. Trong quá trình tìm kiếm kiến thức của người học có thể chưa chính xác, chưa khoa học, người học có thể căn cứ vào kết luận của người dạy để tự kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về cách học của mình. Nhận ra những sai sót và biết cách sửa sai đó chính là biết cách học.
Dạy học tích hợp biểu hiện cách tiếp cận lấy người học là trung tâm, đây là xu hướng chung có nhiều ưu thế so với dạy học truyền thống.
I.2.2. Định hướng đầu ra
Người học đạt được những đòi hỏi đó còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người. 
Dạy học tích hợp chú ý đến kết quả học tập của người học để vận dụng vào công việc tương lai đòi hỏi quá trình học tập phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ. 
I.2.3. Dạy và học các năng lực thực hiện
Trong dạy học tích hợp, người học được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, họ phải trực tiếp quan sát, thảo luận, làm bài tập, giải quyết nhiệm vụ đặt ra theo cách nghĩ của mình, tự lực tìm kiếm nhằm khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp xếp. Người học cần phải tiếp nhận đối tượng qua các phương tiện nghe, nhìn,...và phân tích đối tượng nhằm làm bộc lộ và phát hiện ra các mối quan hệ bản chất, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Từ đó, người học vừa nắm được kiến thức vừa nắm được phương pháp thực hành. Như vậy, người dạy không chỉ đơn thuần truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn các thao tác thực hành.
Dạy học tích hợp có thể hiểu là một hình thức dạy học kết hợp giữa dạy lý thuyết và dạy thực hành, qua đó ở người học hình thành một năng lực nào đó hay kỹ năng hành nghề nhằm đáp ứng được mục tiêu của mô đun. Dạy học phải làm cho người học có các năng lực tương ứng với chương trình. 
Năng lực nhận thức: đòi hỏi học sinh phải có các khả năng quan sát, ghi nhớ, tư duy (độc lập, logic, cụ thể, trừu tượng...), tưởng tượng, suy luận, tổng hợp- khái quát hoá, phê phán- bình luận, từ đó có khả năng phát hiện vấn đề, khả năng tự học, tự trao dồi kiến thức trong suốt cuộc đời,...
Năng lực xã hội: đòi hỏi người học sinh phải có những khả năng giao tiếp, thuyết trình, giải quyết tình huống có vấn đề, vận hành được các cảm xúc, có khả năng thích ứng, khả năng cạnh tranh cũng như khả năng hợp tác....
Năng lực thực hành: (hoạt động thực tiễn) đòi hỏi học sinh phải có các khả năng vận dụng tri thức (từ bài học cũng như từ thực tiễn), thực hành một cách linh hoạt (tích cực - chủ động), tự tin; có khả năng sử dụng các công cụ cần thiết, khả năng giải quyết vấn đề, sáng tạo, có tính kiên trì,... 
Năng lực cá nhân: được thể hiện qua khía cạnh thể chất, đòi hỏi trước hết học sinh có khả năng vận động linh hoạt, phải biết chơi thể thao, biết bảo vệ sức khoẻ, có khả năng thích ứng tốt với môi trường; tiếp đó là khía cạnh hoạt động cá nhân đa dạng khác như khả năng lập kế hoạch, khả năng tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm, ..
I.2.4. Ưu điểm của dạy học tích hợp
Đối với học sinh:
Các chủ đề tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Các chủ đề tích hợp học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải o các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn các chủ đề tích hợp , liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
Đối với giáo viên:
Giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình, có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kỹ năng sư phạm cho giáo viên.
I.3. Tổ chức dạy học tích hợp
I.3.1. Bài dạy học tích hợp
I.3.1.1. Bài dạy tích hợp
Bài dạy tích hợp là đơn vị học tập nhỏ nhất có khả năng hình thành nơi người học cả kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để giải quyết 1 công việc hoặc một phần công việc chuyên môn cụ thể, góp phần hình thành năng lực thực hiện hoạt động nghề nghiệp của họ.
Khi xây dựng bài dạy theo quan điểm tích hợp, người GV không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà còn phải xây dựng một hệ thống hoạt động, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt người học từng bước thực hiện để hình thành năng lực. Bài dạy theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kiến thức, kỹ năng chuyên môn để giải quyết.
Trong đó, giáo án tích hợp là thành phần quan trọng nhất. Vì vậy, để tổ chức dạy học tích hợp thành công đó là GV phải biên soạn được giáo án tích hợp phù hợp với trình độ của người học, với điều kiện thực tiễn của cơ sở đào tạo, nhưng vẫn đảm bảo thời gian và nội dung theo chương trình khung đã quy định.
1.3.1.2. Quy trình tổ chức dạy học tích hợp
          Từ cơ sở lý luận về dạy học tích hợp, thì quy trình tổ chức dạy học tích hợp  như sau:      
Hình 1: Quy trình tổ chức dạy học tích hợp
Bước 1: Rà soát chương trình, SGK để tìm ra các nội dung dạy học gần giống nhau có liên quan chặt chẽ với trong các môn học của chương trình, SGK; những nội dung liên quan đến vấn đề thời sự. 
Bước 2: Xác định bài học tích hợp và các địa chỉ tích hợp, bao gồm: 
Tên bài học 
Đóng góp của các môn vào bài học. 
Bước 3: Dự kiến thời gian (bao nhiêu tiết) cho bài học tích hợp. 
Bước 4: Xác định mục tiêu của bài học tích hợp, bao gồm: 
- Kiến thức 
- Kĩ năng 
- Thái độ 
- Định hướng năng lực hình thành 
Bước 5: Xây dựng nội dung của bài học tích hợp. Căn cứ vào thời gian dự kiến, mục tiêu, thậm chí cả đặc điểm tâm sinh lí và yếu tố vùng miền để xây dựng nội dung cho phù hợp. 
Bước 6: Xây dựng kế hoạch bài học tích hợp (chú ý tới các PPDH tích cực). 
1.3.1.3. Giáo án tích hợp
Giáo án tích hợp không phải là một bản đề cương kiến thức để giáo viên lên lớp truyền thụ áp đặt cho người học, mà là một bản thiết kế các hoạt động, tình huống nhằm tổ chức cho người học thực hiện trong giờ lên lớp để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Việc xây dựng giáo án tích hợp phải đảm bảo các nội dung và cấu trúc đặc thù. 
Cấu trúc giáo án tích hợp
Kết hợp nghị định 62 và công văn 1610, người nghiên cứu đưa ra cấu trúc cơ bản của giáo án tích hợp.
CẤU TRÚC BÀI HỌC TÍCH HỢP 
1. Mục tiêu 
- Kiến thức 
- Kĩ năng 
- Thái độ 
- Định hướng năng lực hình thành 
2. Thời lượng dự kiến:  tiết 
3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 
4. Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá 
5. Các hoạt động học tập 
Hoạt động 1: Tìm hiểu 
Bước 1:
Bước 2:
............
Hoạt động 2: Tìm hiểu
Bước 1:
Bước 2:
............
I.3.2. Điều kiện tổ chức dạy học tích hợp
Bên cạnh quy trình tổ chức dạy học đã nêu, để tổ chức dạy học tích hợp thành công cần có các điều kiện sau:
- Phương pháp dạy học: Các phương pháp dạy học được áp dụng theo định hướng hành động, tích hợp giữa truyền thụ kiến thức/lý thuyết với hình thành rèn và luyện kỹ năng/thực hành, nhằm tạo điều kiện cho người học chủ động tham gia.
- Phương tiện dạy học: Phương tiện dạy học bao gồm cả học liệu được thiết kế
- Giáo viên: Giảng dạy tích hợp xác định các mục tiêu bài dạy, phân bố thời gian hợp lý, chọn lựa phương pháp dạy học phù hợp, khả năng bao quát và điều hành hoạt động của người học.
- Học sinh: Học sinh phải chủ động, tích cực, độc lập, có tinh thần hợp tác.
- Đánh giá: Đánh giá kết quả học tập nhằm xác định/công nhận các năng lực mà người học đã đạt được thong qua đánh giá sự thực hiện cũng như mức độ đạt được các mục tiêu kiến thức, kỹ năng và thái độ.
- Cơ sở vật chất: diện tích phòng dạy học tích hợp phải đủ lớn để kê bàn, ghế học lý thuyết, lắp đặt các thiết bị hỗ trợ giảng dạy lý thuyết, lắp đặt đủ các thiết bị thực hành cho học sinh.
I.4. Sự cần thiết của dạy học theo xu hướng tích hợp
Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa
	Trong môn học được xây dựng theo quan điểm tích hợp, các quá trình học tập không cô lập với cuộc sống hàng ngày, mà được tiến hành trong mối liên hệ với các tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp - những tình huống có ý nghĩa đối với HS. Không còn hai thế giới riêng biệt, thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, trái lại người ta tìm cách hoà nhập thế giới nhà trường vào thế giới cuộc sống.
Xác định rõ mục tiêu, phân biệt cái cốt yếu và cái ít quan trọng hơn. 
	Cần tránh đặt tất cả các quá trình học tập ngang bằng nhau. Một số quá trình học tập là quan trọng vì chúng có ích cho cuộc sống hàng ngày và vì chúng là những cơ sở của quá trình học tập tiếp theo. Ngoài ra có thể dành thời gian cho quá trình học tập có tính nâng cao.
Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống
	Tích hợp nhằm nêu bật cách thức sử dụng những kiến thức mà HS lĩnh hội được. Thay vì bằng lòng với việc nhồi nhét những kiến thức đủ loại vào đầu học sinh, việc học tập tích hợp làm cho học sinh trở thành công dân có trách nhiệm, người lao động có năng lực, người tự lập.
	Khi đánh giá những điều HS đã lĩnh hội được, ngoài các kiến thức cần tìm cách đánh giá HS có khả năng sử dụng kiến thức trong các tình huống hay không - đó là năng lực hay mục tiêu tích hợp.
Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học
	Thiết lập mối liên hệ giữa các khái niệm khác nhau của cùng một môn học, giữa các môn học. Nhằm đáp ứng lại một trong những thách thức lớn của xã hội ngày nay là đảm bảo cho mỗi học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình để giải quyết một cách hữu ích một tình huống mới xuất hiện, và có thể đối mặt với một khó khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp.
Tránh những kiến thức, kỹ năng, nội dung trùng lặp khi nghiên cứu riêng rẽ từng môn học, đồng thời có những nội dung, kỹ năng, năng lực mà theo môn học riêng rẽ không có được. Qua đó tiết kiệm thời gian để phát triển năng lực cho HS thông qua giải quyết những tình huống phức hợp.
Các kiến thức gắn liền với kinh nghiệm sống của học sinh, do đó sự phát triển các khái niệm khoa học không cô lập với cuộc sống và phát triển tuần tự phù hợp với sự phát triển, tâm sinh lý của HS. Các khái niệm không lạc hậu do thường xuyên cập nhật với cuộc sống.
Ở những môn học tích hợp, có điều kiện để phát triển những kỹ năng xuyên môn.
Góp phần hình thành phát triển năng lực chung cũng như các năng lực chuyên biệt cho HS
II. Dạy học dự án
II.1. Khái niệm dự án và dạy học theo dự án
Ban đầu, phương pháp dự án (PPDA) được sử dụng trong dạy học thực hành các môn học kỹ thuật, về sau được dùng trong hầu hết các môn học khác, cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, hiện nay PPDA được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển.
Ở Việt Nam, các đề án môn học, đề án tốt nghiệp từ lâu cũng đã được sử dụng trong đào tạo đại học, các hình thức này gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy trong lĩnh vực lý luận dạy học, PPDH này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thích đáng, nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao.
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án. DHDA được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án, có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH, người ta cũng gọi là PP dự án, khi đó cần hiểu đó là PPDH theo nghĩa rộng, một PPDH phức hợp.
Dạy học theo dự án (DHDA) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA.
II.2. Đặc điểm của dạy học dự án
Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của DHDA như sau:
Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những  tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học.
Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dung lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
Tính tự lực cao của người học : Trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học.  Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo  của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội.
Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
II.3. Các dạng của dạy học theo dự án
DHDA có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại dạy học theo dự án:
II.3.1.Phân loại theo chuyên môn
Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
Dự án ngoài chuyên môn: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
II.3.2. Phân loại theo sự tham gia của người học 
Dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. 
Dự án dành cho nhóm HS là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học
II.3.3. Phân loại theo sự tham gia của giáo viên 
Dự án dưới sự hướng dẫn của một GV
Dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV.
II.3.4. Phân loại theo quỹ thời gian: 
K.Frey đề nghị cách phân chia như sau:
Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học.
Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày (“Ngày dự án”), nhưng giới hạn là một tuần hoặc 40 giờ học.
Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”).
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông. Trong đào tạo đại học, có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
II.3.5.Phân loại theo nhiệm vụ
Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo các dạng sau:
Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình.
Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng.
II.4. Tiến trình thực hiện dạy học dự án
Sau đây trình bày một cách phân chia các giai đoạn của dạy học theo dự án theo 5 giai đoạn.
Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án : GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết,  trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học viên lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía HS. Giai đoạn này được K.Frey mô tả thành hai giai đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến.
Xây dựng kế hoạch thực hiện: trong giai đoạn này HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
Thực hiện dự án : các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này HS thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
Thu thập kết quả và công bố sản phẩm : kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm sinh viên, có thể được giới thiệu trong nhà trường, hay ngoài xã hội.
Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài. Hai giai đoạn cuối này cũng có thể được mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. 
II.5. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án
II.5.1. Ưu điểm
Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học này. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án:
Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội;
Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học;
Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm;
Phát triển khả năng sáng tạo;
Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp;
Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn;
Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc;
Phát triển năng lực đánh giá.
II.5.2. Nhược điểm
DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản;
DHDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy  học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống.
DHDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
Tóm lại DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt động và quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
Kết luận:
“Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy Chương 2: Vũ trụ. Hệ mặt trời. Hệ quả của trái đất Địa lí 10”. Kết hợp vận dụng quan điểm tích hợp bằng phương pháp dạy học dự án. Đề tài đã chỉ rõ những ưu điểm của phương dạy học dự án và tích hợp sau đó kết hợp cả 2 nội dung này vào bài dạy.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA DẠY HỌC
 THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP VÀ DẠY HỌC DỰ ÁN
I. Vài nét về tình hình chung và tình hình giáo dục của địa phương, nhà trường 
I.1. Thuận lợi:
* Giáo viên: Đội ngũ giáo viên của trường THPT Ngô Gia Tự có chuyên môn cao, nhiệt tình trong công tác, ham học hỏi... được sự chỉ đạo sát sao, tận tình của Ban Giám Hiệu nhà trường.
+Trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó hay nói cách khác đội ngũ giáo viên chúng ta đã dạy tích hợp liên môn từ lâu rồi nhưng chúng ta chưa đi sâu và chưa có khái niệm tên gọi cụ thể mà thôi .
+ Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học.
+ Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực: như phương pháp bàn tay nặn bột hoặc kĩ thuật khăn trải bàn, dạy học theo dự án 
+ Môi trường “ Trường học kết nối” rất thuận lợi để giáo viên đổi mới trong dạy tích hợp, liên môn.
+ Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
+ Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp, liên môn
* Học sinh : Đối tượng dạy học của dự án là học sinh khối lớp 10 trường THPT Ngô Gia Tự
Thứ nhất: Các em học sinh lớp 10 đã tiếp cận với kiến thức chương trình bậc THCS. Không còn bỡ ngỡ, lạ lẫm với những hình thức kiểm tra, đánh giá mà giáo viên đề ra, biết sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống kiến thức sau mỗi bài, mỗi chương học của tất cả các môn.
Thứ hai: Đối với bộ môn Địa lý... các em đã được học rất nhiều bài có liên quan đến vấn đề môi trường, các kỳ quan thiên nhiên.
          Thứ ba:  Học sinh có hứng thú tìm hiểu kiến thức các bộ môn nhất là các bộ môn xã hội ngày càng nhiều hơn, sách giáo khoa được trình bày theo hướng “ mở ”nên cũng tạo điều kiên, cơ hội cũng như môi trường thuận lợi cho học sinh phát huy tư duy sáng tạo.
I.2. Khó khăn:
 - Đối với giáo viên:
+ Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác.
 	+ Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên  khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù hợp. Nội dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay đổi.
+ Điều kiện cơ sở vật chất (thiết bị thông tin ,truyền thông) phục vụ cho việc dạy học trong nhà trường còn nhiều hạn chế nhất là các trường ở nông thôn.
 - Đối với học sinh:
+ Dạy tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ HS hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
 	+ Do xu thế chọn ngành nghề th

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_quan_diem_tich_hop_thong_qua.docx