Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực

Bộ Giáo dục đã có những thay đổi để điều chỉnh chương trình dạy học. Tuy nhiên Bộ, ngành lại chưa có hướng dẫn để dạy học chủ đề được tích hợp như thế nào. Đặc biệt là lại dạy học chủ đề trong xu hướng đổi mới dạy và học hiện nay. Nếu không có những đổi mới từ phía giáo viên thì dạy học chủ đề lại đi theo lối mòn trước đây.

Shê- khốp cho rằng: Nếu nhà văn không có một lối đi riêng của mình thì người đó chẳng bao giờ là nhà văn. Quá trình sáng tác văn chương đề cao cá tính sáng tạo thì quá trình giảng dạy văn việc sáng tạo, đổi mới cũng luôn phải được chú trọng. Trong lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, có thể nói rằng giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Với tiêu chí đó, tôi luôn muốn thay đổi mình, muốn tạo ra những luồng gió mới trong các tiết học Ngữ văn để tạo hứng thú cho học sinh. Vì những lí do trên nên tôi đã thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực

 

docx 36 trang phuongnguyen 26/07/2022 6560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lí do chọn đề tài
Định hướng đổi mới quan niệm dạy học hiện nay là: Dạy cách học và học cách học. Đúng như Luật Giáo dục đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. 
 Từ yêu cầu đó, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến việc học sinh vận dụng được gì qua quá trình học tập. Từ chỗ học sinh tiếp thu thụ động những kiến thức quy định sẵn sang tự lực, tích cực lĩnh hội kiến thức. Để thực hiện được điều đó, phải thành công trong việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang dạy cách học tích cực nhằm giúp học sinh chủ động, tự lực lĩnh hội tri thức, vận dụng tri thức, rèn luyện kĩ năng để rồi từ đó hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề thực tiễn, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh cần diễn ra đồng bộ ở tất cả các bộ môn trong nhà trường đặc biệt với bộ môn Ngữ Văn sẽ thực sự phát huy hết vai trò trong việc giúp học sinh hình thành được các phẩm chất và năng lực.
Năm học 2020 – 2021 được xem là năm học đặc biệt của học sinh cả nước. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, để đảm bảo một môi trường học tập an toàn, Bộ GD&ĐT đã ban hành công văn 3280/BGDĐT-GDTrH - 2020 về hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học THCS, THPT năm học 2020 - 2021. Theo công văn này, ở môn Ngữ văn, mỗi khối lớp đều có hướng dẫn tích hợp một chủ đề trong một học kì. Trong chương trình Ngữ văn 8 có hai chủ đề tích hợp:
 Học kì I có một chủ đề bao gồm các bài học:
Tôi đi học của Thanh Tịnh
Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) của Nguyên Hồng
Tính thống nhất về chủ đề của văn bản
Bố cục của văn bản
 Học kì II có một chủ đề tích hợp bao gồm:
Nhớ rừng của Thế Lữ 
Ông đồ của Vũ Đình Liên
 Câu nghi vấn
 Bên cạnh công văn 3280/BGDĐT-GDTrH - 2020 về hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học THCS, THPT năm học 2020 – 2021, Bộ GD&ĐT cũng ban hành Thông tư 26/2020/TT- BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông. Tại điều 8, khoản 1 của thông tư có quy định: Đối với kiểm tra, đánh giá định kì; trong mỗi học kì, một môn học có một điểm kiểm tra đánh giá giữa kì và một điểm kiểm tra đánh giá cuối học kì. Dựa vào hai văn bản này, giáo viên phải xây dựng kế hoạch chương trình dạy học phù hợp với đơn vị mình, có thể chủ động sắp xếp thời lượng dạy học. Khi số tiết một số bài học và số tiết kiểm tra giảm thì giáo viên hoàn toàn chủ động trong việc bố trí, sắp xếp thời gian cho các tiết học. Có thể tăng số tiết cho các bài học mà giáo viên cho là quan trọng và có thể thực hiện đầy đủ các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
Lâu nay trên thực tế, đối với dạy học chủ đề môn Văn học, mặc dù các bài học được gom lại thành một chủ đề nhưng khi dạy, giữa các bài học trong chủ đề dường như không có sự liên kết với nhau, dạy học chủ đề vẫn nặng về truyền thụ kiến thức và bị giới hạn trong số tiết được quy định từ các bài học cộng lại. Việc tích hợp kiến thức các môn học khác cũng chưa được chú trọng. Và đặc biệt là phần vận dụng, thực hành kĩ năng chưa được thực hiện, hoặc thực hiện chưa hiệu quả. 
Bộ Giáo dục đã có những thay đổi để điều chỉnh chương trình dạy học. Tuy nhiên Bộ, ngành lại chưa có hướng dẫn để dạy học chủ đề được tích hợp như thế nào. Đặc biệt là lại dạy học chủ đề trong xu hướng đổi mới dạy và học hiện nay. Nếu không có những đổi mới từ phía giáo viên thì dạy học chủ đề lại đi theo lối mòn trước đây. 
Shê- khốp cho rằng: Nếu nhà văn không có một lối đi riêng của mình thì người đó chẳng bao giờ là nhà văn. Quá trình sáng tác văn chương đề cao cá tính sáng tạo thì quá trình giảng dạy văn việc sáng tạo, đổi mới cũng luôn phải được chú trọng. Trong lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, có thể nói rằng giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Với tiêu chí đó, tôi luôn muốn thay đổi mình, muốn tạo ra những luồng gió mới trong các tiết học Ngữ văn để tạo hứng thú cho học sinh. Vì những lí do trên nên tôi đã thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực.
II. Tính mới và đóng góp mới của vấn đề nghiên cứu
 Ngay từ khi tiếp nhận các công văn mới của Bộ giáo dục ở đầu năm học, bản thân tôi đã bắt tay ngay vào việc xây dựng kế hoạch dạy học chủ đề và thực hiện. Những tiết học đầu tiên của năm học mới chính là những tiết học về chủ đề Học kì I. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu là những trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ để đáp ứng yêu cầu đổi mới cũng như chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Giáo dục năm học 2020 – 2021. 
 Vận dụng sáng kiến dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, làm cho người học thấy được vai trò trung tâm của mình trong việc tiếp nhận tri thức, người học phải tự khám phá kiến thức, vận dụng sáng tạo. Qua đó học sinh sẽ dần dần hình thành tư duy logic, bộc lộ những năng lực tiềm ẩn. Việc thực hiện đề tài sẽ giúp học sinh có hứng thú hơn với việc tìm hiểu và say mê hơn với môn học này. Đồng thời giáo viên có cơ sở khoa học để vận dụng những tình huống có vấn đề thông qua đề tài, học sinh sẽ được củng cố thêm hiểu biết có kĩ năng sống phù hợp để thích ứng với hoàn cảnh trong tâm thế chủ động. Ngoài ra đây cũng là nguồn tư liệu cho đồng nghiệp tham khảo trong quá trình giảng dạy.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học 
 1.1. Cơ sở lí luận
 1.1.1 Khái niệm năng lực
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng - 1998) có giải thích: Năng lực là: Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 thì năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung, cốt lõi. Định hướng chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) đã xác định một số năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có để đáp ứng với tình hình thực tế cuộc sống đang phát triển và hòa nhập với môi trường quốc tế.
Năng lực làm chủ và
phát triển bản thân
Năng lực xã hội
Năng lực công cụ
Năng lực tự học
Năng lực giao tiếp
Năng lực tính toán
Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực hợp tác
Năng lực sử dụng ngôn ngữ
Năng lực sáng tạo
Năng lực ứng dụng CNTT
Năng lực quản lí bản thân
1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh.
Bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung và chương trình định hướng phát triển năng lực sẽ cho chúng ta thấy ưu điểm của chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực:
Chương trình
định hướng nội dung
Chương trình
định hướng phát triển năng lực
Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu dạy học được mô tả không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được.
Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của học sinh một cách liên tục.
Nội dung giáo dục
Việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn. Nội dung được quy định chi tiết trong chương trình.
Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung chính, không quy định chi tiết.
Phương pháp dạy học
Giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học. Học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn.
- Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp
- Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành.
Hình thức dạy học
Chủ yếu dạy học lý thuyết trên lớp học
Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học
Đánh giá kết quả học tập của HS
Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học.
Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn.
1.1.3. Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến
* Năng lực giải quyết vấn đề
Trên thực tế, có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ). Tuy nhiên, các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho rằng GQVĐ là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội dung dạy học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học, quá trình học tập các nội dung trên là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học.
*Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ trí tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là học sinh, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,).
*Năng lực hợp tác
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành tích học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực rất cần thiết trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường, một không gian rộng mở của quá trình hội nhập.
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học trong bối cảnh mới.
*Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn luyện và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, học sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống.
*Năng lực giao tiếp tiếng Việt 
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe, nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh/ ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, học sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp. 
*Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ thể hiện trước hết ở hoạt động đọc. Ở cấp trung học cơ sở: học sinh biết vận dụng kiến thức tiếng Việt cùng với những trải nghiệm và khả năng suy luận của bản thân để hiểu văn bản; biết đọc văn bản theo kiểu, loại; hiểu được nội dung tường minh và hàm ẩn của văn bản; nhận biết và bước đầu biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản; biết so sánh văn bản này với văn bản khác, liên hệ với những trải nghiệm cuộc sống của cá nhân; từ đó có cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận riêng về cuộc sống, làm giàu đời sống tinh thần. 
Đối với hoạt động viết, Ở cấp trung học cơ sở: học sinh viết được bài văn tự sự, miêu tả và biểu cảm; bước đầu biết viết bài văn nghị luận, thuyết minh, nhật dụng; viết đúng quy trình, biết cách tìm tài liệu để đáp ứng yêu cầu viết văn bản; có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và biết cách trích dẫn văn bản, những vấn đề.
Đối với hoạt động nói và nghe, ở cấp trung học cơ sở: học sinh trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người; sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách mạch lạc câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ những cảm xúc, thái độ, trải nghiệm, ý tưởng của mình đối với những vấn đề được nói đến; thảo luận ý kiến về vấn đề đã đọc, đã nghe; thuyết minh về một đối tượng hay quy trình; biết cách nói thích hợp với mục đích, đối tượng và ngữ cảnh giao tiếp; biết sử dụng hình ảnh, kí hiệu, biểu đồ,... để trình bày vấn đề một cách hiệu quả; học sinh thực hành nghe hiểu với thái độ phù hợp và tóm tắt được nội dung; nhận biết và bước đầu đánh giá được lí lẽ, bằng chứng mà người nói sử dụng; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe một cách hiệu quả.
Như vậy, năng lực ngôn ngữ là một năng lực tổng hợp trên cơ sở những biểu hiện của bốn yếu tố đọc, viết, nghe, nói cấu thành. Các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ, thúc đẩy và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên tính toàn diện năng lực đặc thù của môn Ngữ văn.
*Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. 
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. 
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp học sinh từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết).
 1.1.4. Dạy học theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” tức là khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề ở bậc trung học là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ, đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển, nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, chúng tôi thấy việc dạy - học các tiết học nói chung, chủ đề nói riêng trong chương trình tại đơn vị chưa thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học sinh. Điều đó, thể hiện ở những tồn tại sau:
Dạy học đọc - hiểu chủ yếu vẫn theo hướng truyền thụ một chiều những cảm nhận của giáo viên về văn bản, chưa hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Dạy học chú trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng của văn bản văn học, ít chú trọng đến các phương tiện nghệ thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình thành kỹ năng.
Dạy học tích hợp đã được chú trọng trong những năm học gần đây và cũng đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, thiếu tự nhiên, tức là giáo viên thường áp đặt những nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống một cách lộ liễu. Chưa phát huy học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Chủ yếu tích hợp liên môn, chưa chú trọng tích hợp các phân môn chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển.
Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. Trong những năm học vừa qua, nhận thức của đội ngũ giáo viên về tính cấp thiết phải đổi mới phương pháp dạy học đã thay đổi và có nhiều chuyển biến; việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực đã được thực hiện. Tuy nhiên cách thực hiện, hiệu quả giảng dạy để đạt được mục tiêu của nó là chưa cao, ví dụ như phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được.
II. Thực trạng 
2.1. Thực trạng dạy của giáo viên 
 	Nhiều giáo viên tâm huyết với bộ môn Ngữ văn cho rằng việc dạy học vẫn chưa tạo sức hút cho học sinh. Chưa vận dụng có hiệu quả lý luận dạy học vào thực tiễn bài giảng nên nhiều giờ dạy giáo viên vẫn chưa thực sự giúp học sinh thể hiện cái riêng trong tiếp nhận kiến thức. Sự phát huy tính tích cực chủ động của học sinh thực ra vẫn mang tính chất nửa vời. Không phát huy được năng lực tư duy sáng tạo của các em. 
Trong các tiết học, nội dung bài học cũng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những kiến thức đơn thuần về nội dung và nghệ thuật của các văn bản và các kiến thức Tập làm văn hoặc tiếng Việt chứ chưa giúp học sinh hình thành được kĩ năng tìm hiểu một văn bản và khả năng suy luận để tự mình rút ra những bài học thực tiễn cho bản thân.
Về phương pháp thì phương pháp chủ yếu vẫn là thuyết trình của giáo viên và sự thụ động ghi chép của học sinh. Chủ thể của giờ học là giáo viên bởi vậy giờ học thường rất nặng nề và áp lực. 
Theo chỉ đạo của ngành, những năm gần đây, các trường học cũng thực hiện đúng việc xây dựng và dạy học theo chủ đề. Mỗi tổ nhóm chuyên môn đều xây dựng tối thiểu hai chủ đề trong một năm học. Tổ chức dạy thử nghiệm để dự giờ, rút kinh nghiệm. Theo tiến trình hoạt động của mô hình trường học mới, dạy học chủ đề cũng thực hiện theo 5 bước: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và tìm tòi mở rộng. Nhưng trên thực tế, giáo viên và học sinh mới thực sự thực hiện được ba hoạt động đầu, hoạt động vận dụng và tìm tòi, mở rộng thì giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện ở nhà. Sở dĩ như vậy là vì khi thực hiện các chủ đề số tiết học vẫn không thay đổi. Số tiết chủ đề là số tiết các bài học trong chủ đề cộng lại. Với việc chú trọng nội dung kiến thức bài học, giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức các bài học liên quan đến chủ đề mà chưa có những tiết học để tổng kết chủ đề, vận dụng chủ đề, kết nối các nội dung trong chủ đề lại với nhau. 
2.2. Thực trạng học của học sinh
Hiện nay, số lượng học sinh yêu thích môn Văn ngày càng ít đi, số học sinh giỏi văn cũng theo đó mà ngày càng ít dần. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng học sinh đăng kí thi các trường đại học, cao đẳng khối C giảm sút đáng kể. Các kỳ thi tuyển HSG không được học sinh hưởng ứng một cách tích cực.
 Qua thực tế dạy học, tôi thấy việc học tập của học sinh cũng có nhiều điểm đáng quan tâm. Có thể nói, nhìn chung nhiều học sinh vẫn ngại học môn Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều, nghe giảng nhiều và nhiều kiến thức. Hơn nữa, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cũng không để ý tới việc nhận thức của các em mà chỉ dạy làm sao cho đúng tiến độ, cho hết giờ. Vì vậy, trong các giờ học học sinh tiếp nhận tri thức một cách hững hờ, ít nhiệt tình. Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục cũng không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học Ngữ văn. Trong giờ học văn, học sinh ngồi học thụ động, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động. 
	Đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về các năng lực được phát huy trong giờ học ngữ văn ở ba lớp 8 (Phụ lục 1). Theo bảng khảo sat, thì số học sinh chưa phát huy được các năng lực chiếm tỉ lệ cao: 52%.
Cùng với khảo sát chất lượng về các năng lực được phát huy trong giờ học Ngữ văn, tôi đã khảo sát học sinh lớp 8 về sự yêu thích đối với học chủ đề Ngữ văn. Kết quả thu được trước khi thực hiện dạy học chủ đề năm học mới: không thích chiếm 37%, bình thường chiếm 31% và thích là chiếm 32%. 
Như vậy, trên thực tế tỉ lệ học sinh không thích học chủ đề cao, và không thấy sự khác biệt khi học chủ đề và học các bài học độc lập. Các năng lực chưa thực sự được phát huy khi dạy học chủ đề trước đây. Đó là điều mà giáo viên phải tìm cách để thay đổi.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 3.1. Tìm hiểu, nắm vững mục tiêu bài giảng Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực 
Để xây dựng, thiết kế chủ đề theo định hướng phát triển năng lực, điều đầu tiên là cần phải nắm vững mục tiêu bài dạy theo định hướng phát triển năng lực. 
Trong giáo dục theo định hướng năng lực học sinh, quan trọng là xác định rõ những năng lực cần có và có thể phát triển trong dạy học. Trong đó gồm năng lực chung có thể phát triển ở các môn học khác nhau và năng lực riêng. 
Theo quan điểm của các nhà sư phạm, cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần sau:
Các thành phần cấu trúc của năng lực
	- Năng lực chuyên môn (Professional competency)
	- Năng lực phương pháp (Methodical competency)
	- Năng lực xã hội (Social competency)
	- Năng lực cá thể (Induvidual competency)
Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng

File đính kèm:

  • docxday_hoc_chu_de_ngu_van_8_theo_dinh_huong_phat_trien_nang_luc.docx